Chiến tranh và hòa bình ở Châu Á

Sự vươn lên của Châu Á đang đảo lộn trật tự toàn cầu và chấm dứt sự thống lĩnh của phương tây. Bài viết này của Gideon Rachman, trưởng ban bình luận các vấn đề đối ngoại của báo Financial Times, Anh, dựa trên cuốn sách mới “Đông phương hóa: Chiến tranh và Hòa bình trong Thế kỷ Châu Á” của ông do nhà Bodley Head mới xuất bản ở Anh.

Lính của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc ở Biển Đông năm 2016. (Ảnh: Reuters)
Lính của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc ở Biển Đông năm 2016. (Ảnh: Reuters)

Chiến tranh và hòa bình ở Châu Á

Gideon Rachman

Phạm Vũ Lửa Hạ dịch

Trong lịch sử Trung Quốc, khách ngoại quốc tới triều đình thường được đối xử như “những kẻ man di” phải bày tỏ lòng tôn kính đối với hoàng đế. Có những nét tương đồng với lối đối xử này trong cách giới lãnh đạo Trung Quốc hiện đại giao tế với những nước khác trên thế giới, như tôi đã nhận ra khi có mặt trong một nhóm khách nhỏ được Chủ tịch Tập Cận Bình tiếp đón ở Bắc Kinh vào tháng 11 năm 2013. Trong nhóm này có nhiều nhân vật nổi tiếng, trong đó có cựu thủ tướng Vương quốc Anh Gordon Brown, và cựu thủ tướng Ý Mario Monti, cùng với một số tỷ phú phương tây. Song, những nhân vật tai to mặt lớn ngoại quốc này được đối xử hệt như một đám học trò.

Trước hết, chúng tôi được dẫn vào khu vực trung tâm vọng tiếng của Đại hội đường Nhân dân; rồi chúng tôi được xếp ngồi trên các hàng ghế băng để chụp ảnh với chủ tịch. Một lát sau, Tập Cận Bình đường bệ bước vào phòng và bắt tay vài người (“Tôi chạm được ông ta”, Francis Fukuyama, học giả nổi tiếng, thốt lên với vẻ vờ kinh ngạc) — trước khi vào chỗ chụp ảnh.

Mấy phút sau, bài diễn văn của vị chủ tịch bắt đầu. Ngồi ở chính giữa một phòng yến tiệc, với một bích chương khổng lồ Vạn Lý Trường Thành sau lưng ông, trên đầu có những chùm đèn, và với các cựu lãnh đạo phương tây được xếp ngồi hình bán nguyệt trước mặt ông, Tập Cận Bình bắt đầu bài phát biểu của mình bằng cách nhắc cho những vị khách của mình nhớ rằng “Trung Quốc là một nền văn minh cổ đại với hơn 5.000 năm lịch sử”. Về một số mặt, đó là một nhận xét kiểu mẫu rập khuôn. Tuy nhiên việc Trung Quốc ‎ý thức về hàng ngàn năm lịch sử của mình là điều căn bản để quốc gia này hiểu chính mình. Điều đó cũng tất yếu nghĩa rằng Trung Quốc, về một số mặt, xem Mỹ là một quốc gia mới phất lên — một quốc gia chỉ mới tồn tại chưa tới 250 năm, ngắn hơn tuổi thọ của phần lớn các triều đại Trung Quốc.

Quyết tâm của Tập Cận Bình về tái thiết sự thịnh vượng và sức mạnh của quốc gia mình là chủ đề trọng tâm của bài phát biểu của ông. Một trong những khẩu hiệu ưa thích của ông, mà ông đã nhiều lần đưa ra để thử lòng thính giả ngoại quốc của ông, là “sự đại phục hưng” của đất nước Trung Hoa. Nhưng ông cũng muốn trấn an thính giả của mình rằng sự vươn lên của Trung Quốc sẽ không dẫn tới xung đột với thế giới bên ngoài — “Chúng ta đều cần chung sức với nhau để tránh cái bẫy Thucydides — những căng thẳng có tính hủy diệt giữa một cường quốc đang trỗi dậy và các cường quốc lâu đời,” ông khẳng định.

Việc Tập Cận Bình nhắc tới “cái bẫy Thucydides” cho thấy ông (hoặc cấp dưới của mình) đã theo dõi cuộc tranh luận ở Mỹ về sự vươn lên của Trung Quốc. Graham Allison, một giáo sư Đại học Harvard, đã đưa ra thuật ngữ này khi nhắc tới nhận xét của sử gia Hy Lạp cổ đại cho rằng chiến tranh giữa Athens và Sparta trong thế kỷ thứ năm trước Công nguyên xảy ra là do Sparta lo sợ về một Athens đang vươn lên. Ông đã tính toán rằng 12 trong 16 trường hợp kể từ năm 1500, sự đối đầu giữa một đại cường quốc và một cường quốc đang vươn lên đã kết thúc bằng chiến tranh.

Bất chấp những nỗ lực trấn an của Tập Cận Bình, rõ ràng những căng thẳng chiến lược đang tăng lên giữa Mỹ và Trung Quốc. Trong năm qua, Trung Quốc đã cố gắng tái thực hiện các tuyên bố chủ quyền bị tranh chấp của mình ở phần lớn Biển Đông (South China Sea) bằng cách xây các đảo nhân tạo và đồn bốt quân sự trên khắp vùng biển này. Đáp lại, hải quân Mỹ đã cố tình cho tàu đi qua các vùng biển tranh chấp này — khiến Bắc Kinh phẫn nộ phản ứng quyết liệt.

Sự đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc là một trong những chủ đề đáng chú ý và nguy hiểm nhất trong chính trị quốc tế. Nhưng các căng thẳng đang gia tăng ở Đông Á chỉ là một phần của câu chuyện lớn hơn. Những năm cầm quyền của Obama có đầy những thách thức đối với sự thống lĩnh của phương tây trong chính trị quốc tế. Ở Trung Đông, một hệ thống nhà nước chủ yếu được do Anh và Pháp xây dựng vào đầu thế kỷ 20 — và sau đó được sức mạnh Mỹ duy trì sau năm 1945 — nay đang sụp đổ. Ở Châu Âu, việc Nga chiếm Crimea vào năm 2014 đánh dấu sự cưỡng ép sáp nhập lãnh thổ đầu tiên trên phần đất liền Châu Âu kể từ năm 1945.

Sợi chỉ đỏ kết nối những cuộc khủng hoảng tưởng như có tính khu vực nay là việc phương tây ngày càng không có khả năng làm trụ cột của sự ổn định và sức mạnh, thiết lập trật tự trong một thế giới hỗn loạn. Ở Mỹ, giới chỉ trích Tổng thống Barack Obama thường lập luận rằng nhược điểm của phương tây là lỗi lầm của chính Obama. Nhưng thực ra có những chiều hướng lịch sử sâu xa hơn. Trong hơn 500 năm, kể từ buổi ban đầu của thời kỳ thực dân Châu Âu, số phận của các quốc gia và dân tộc ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ được định hình bởi những diễn biến và quyết định được đưa ra ở Châu Âu — và về sau là Mỹ. Nhưng sự thống lĩnh trong nhiều thế kỷ của phương tây về các vấn đề thế giới nay đang sắp chấm dứt. Căn nguyên của thay đổi này là sự phát triển kinh tế phi thường ở Châu Á trong 50 năm qua. Sức mạnh chính trị phương tây được tạo lập dựa trên sự thống lĩnh về kỹ thuật, quân sự và kinh tế — nhưng các ưu thế này đang nhanh chóng phai tàn. Và các hậu quả hiện nay đang được cảm nhận trong chính trị toàn cầu.

Chuyện sự vươn lên của Châu Á có thể một ngày nào đó đe dọa sự thống lĩnh địa chính trị của phương tây vẫn dường như là một viễn tượng xa vời khi tôi lần đầu tiên chuyển tới Châu Á làm phóng viên ngoại quốc vào năm 1993. Trung Quốc lúc đó đang tăng trưởng với tỷ lệ hai chữ số, nhưng vẫn là một nước nghèo rõ rệt. Ngay cả ở Thượng Hải, kinh đô thương mại của nước này, trên đường phố vẫn có nhiều xe máy hơn xe hơi. Những cao ốc chọc trời bóng nhoáng của Phố Đông, mà hiện nay là biểu tượng của sự thịnh vượng của thành phố này — lúc đó chưa ra khỏi giá vẽ của kiến trúc sư. Ngay cả lúc đó đã có những căng thẳng quân sự giữa Trung Quốc và Mỹ. Nhưng, vào năm 1996, khi Trung Quốc thử uy hiếp Đài Loan bằng cách thực hiện các vụ thử tên lửa ở vùng biển xung quanh “tỉnh phản loạn” của mình, Mỹ nhanh chóng đưa các hàng không mẫu hạm tới khu vực này — và Bắc Kinh xuống nước. Lúc đó rõ ràng Mỹ vẫn là siêu cường quốc duy nhất.

Hai mươi năm sau, Trung Quốc đang thách thức cán cân quyền lực ở Thái Bình Dương với sự quyết tâm cao hơn. Nhưng để thực sự hiểu ý nghĩa của thời đại chúng ta đang trải qua, ta cần quay trở lại thời đại trước chủ nghĩa thực dân Châu Âu. Vào đầu thế kỷ 15, Trung Quốc và thế giới Hồi giáo ở các cấp độ sức mạnh kinh tế và chính trị và sự tân tiến ít nhất tương đương với các cấp độ đạt được ở Châu Âu. Cán cân quyền lực toàn cầu bắt đầu lệch với những chuyến hải hành thám hiểm vĩ đại của Châu Âu trong những năm 1490. Năm 1492, Christopher Columbus, một nhà thám hiểm người Genoa được triều đình Tây Ban Nha thuê, vượt Đại Tây Dương. Năm 1498, Vasco da Gama, một nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha, tới Ấn Độ.

Trong những thế kỷ tiếp sau đó, ưu thế của Châu Âu về quân sự, hàng hải và kỹ thuật công nghiệp đã giúp các quốc gia Châu Âu xây dựng các đế chế toàn cầu. Tới đầu thế kỷ 20, chỉ riêng đế chế Anh đã bao phủ gần một phần tư diện tích đất liền của thế giới.

Hai cuộc chiến tranh thế giới và một làn sóng giải phóng thuộc địa đã dẫn tới sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân Châu Âu trong nửa sau của thế kỷ 20. Nhưng việc Mỹ trỗi dậy thành cường quốc hàng đầu của thế giới, sau Đệ nhị Thế chiến, đã kéo dài sự bá chủ của phương tây. Ngay cả Liên Sô — đại diện cho phương án thay thế “phương tây” chính trị trong chiến tranh lạnh — cũng là một cường quốc Châu Âu.

Tuy nhiên, trong 50 năm qua, sự thống lĩnh của phương tây trong kinh tế toàn cầu đã dần phai nhạt. Sự chuyển biến kinh tế của Châu Á trước tiên trở nên rõ rệt ở Nhật trong những năm 1960 rồi ở Hàn Quốc, Đài Loan và những nơi khác ở Đông Nam Á trong những năm 1970. Từ 1980 trở đi, nền kinh tế Trung Quốc bắt đầu tăng trưởng với tỷ lệ hai chữ số mà đã được Nhật đi tiên phong trong những năm 1960. Ấn Độ cũng tăng trưởng mạnh, tuy không nhanh bằng, sau những cải cách kinh tế vào đầu những năm 1960.

Một thời khắc có tính biểu tượng đã đến vào năm 2014 khi Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thông báo rằng, tính theo sức mua, Trung Quốc nay là nền kinh tế lớn nhất thế giới. Mỹ đã là nền kinh tế lớn nhất kể từ đầu những năm 1870; nay Trung Quốc là “số một”. Sự vươn lên của Trung Quốc chỉ là một phần trong một chuyển dịch lớn hơn về sức mạnh kinh tế. Theo IMF, ba trong số bốn nền kinh tế lớn nhất thế giới hiện nay ở Châu Á. Trung Quốc nhất, Mỹ nhì, Ấn Độ ba, và Nhật tư.

Nguyên nhân căn bản của sự chuyển dịch sức mạnh kinh tế sang Châu Á khá đơn giản: đông nên mạnh. Tới năm 2025 khoảng hai phần ba dân số thế giới sẽ sinh sống ở Châu Á. Ngược lại, Mỹ chiếm khoảng 5 phần trăm dân số thế giới, còn Liên hiệp Châu Âu chiếm khoảng 7 phần trăm.

Hans Rosling thuộc Viện Karolinska của Thụy Điển diễn đạt khá hay khi ông mô tả mã số PIN của thế giới là “1114” — nghĩa là trong 7 tỷ người trên trái đất, khoảng 1 tỷ sống ở Châu Âu, 1 tỷ sống ở Châu Mỹ, 1 tỷ ở Châu Phi và 4 tỷ ở Châu Á. Tới năm 2050, dân số thế giới có thể là 9 tỷ, và mã số này sẽ thay đổi thành 1125, với Châu Phi và Châu Á mỗi nơi tăng thêm 1 tỷ người.

Trong nhiều thế kỷ, khoảng cách thịnh vượng và kỹ thuật giữa phương tây và phương đông lớn tới nỗi các nước phương tây thống lĩnh các vấn đề quốc tế và kinh doanh — bất chấp sự khác biệt về dân số. Nhưng sự phát triển kinh tế nhanh chóng ở Châu Á trong hai thế hệ qua nghĩa là khoảng cách thịnh vượng này đã thu hẹp đủ để sức mạnh nhờ số đông ở Châu Á bắt đầu làm nghiêng cán cân quyền lực trên thế giới.

Nỗi lo của phương tây về những tác động của sự vươn lên của Châu Á đã thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Ở cánh tả — và nay ở cánh hữu dân tộc chủ nghĩa, như Donald Trump và Marine Le Pen biểu lộ — có sự tập trung lớn vào tác động đối với mức sống của người lao động phương tây. Tuy nhiên, đối với phần lớn giới chóp bu Mỹ cũng thường có khuynh hướng chỉ xem sự vươn lên của Châu Á là một ảo ảnh hoặc chỉ là một giai đoạn — mà không thực sự đe dọa vị thế dẫn đầu của Mỹ. Bất cứ dấu hiệu nào về sự yếu kém kinh tế và chính trị ở Trung Quốc nói riêng đều được khai thác — mà ở Trung Quốc không thiếu những dấu hiệu cảnh báo, về cả chính trị lẫn kinh tế, để nhấn mạnh.

Nhưng, xét về địa chính trị, sự giảm tăng trưởng ở Trung Quốc hoặc Châu Á không còn có tính chuyển biến. Sự phát triển kinh tế giúp cho Trung Quốc và Ấn Độ khẳng định vị thế đại cường quốc đã diễn ra. Những nhà phân tích cao cấp nhất trong các chính phủ phương tây hiện đang vận hành trên giả định rằng sự chuyển dịch về sức mạnh kinh tế từ tây sang đông sẽ tiếp tục và rằng sự thay đổi kinh tế này sẽ biến thành sức mạnh chiến lược. Hội đồng Tình báo Quốc gia (NIC) của Mỹ, trung tâm tư duy chiến lược bên trong Cộng đồng Tình báo Hoa Kỳ, cơ quan tập hợp tất cả các cơ quan tình báo của Mỹ, trong đó có CIA, đã tiên đoán vào năm 2012 rằng “tới năm 2030 Châu Á sẽ qua mặt Bắc Mỹ và Châu Âu cộng lại về sức mạnh toàn cầu, dựa trên GDP, dân số, chi tiêu quân sự và đầu tư công nghệ”.

NIC không ngại nói rõ các tác động của xu hướng này đối với sức mạnh Mỹ. NIC viết rằng: “Pax Americana — thời đại của sự vươn lên của Mỹ trong chính trị quốc tế bắt đầu từ năm 1945 — đang nhanh chóng khép lại.” Những lời này, được xuất bản ngay trước khi bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai của Obama, đã dường như có tính tiên tri trong bốn năm tiếp sau đó. Mỹ đã đứng sang một bên trong khi cuộc chiến ở Syria leo thang và Nga — đã không còn được xem là đại cường quốc sau chiến tranh lạnh — một lần nữa lại bắt đầu trở thành mối nguy cho an ninh Châu Âu.

Nhưng chính mối nguy đối với Pax Americana ở Thái Bình Dương có thể có ‎ý nghĩa quan trọng nhất trong dài hạn. Người Mỹ biết rằng Châu Á nay là cốt lõi của nền kinh tế toàn cầu. Chính vì vậy, một trong những chính sách đối ngoại tiêu biểu của chính quyền Obama là “xoay trục sang Châu Á” — chuyển nguồn lực quân sự và ngoại giao sang Châu Á, để đối phó với sự đông phương hóa của nền kinh tế toàn cầu và thách thức của một Trung Quốc đang vươn lên. Chính quyền Obama cũng đã tìm cách cẩn trọng hơn và có chiến lược hơn về cách và lúc sử dụng sức mạnh Mỹ. Mỹ đã cố tình bớt can dự sâu hơn vào Trung Đông, một phần là vì Mỹ đang cố gắng để dành sức mạnh và nguồn lực của mình cho một cuộc tranh đấu với một Trung Quốc đang vươn lên. Tuy nhiên sức mạnh cũng là do cảm nhận. Vì vậy viễn cảnh một nước Mỹ bớt tận tâm đóng vai trò sen đầm toàn cầu ở Châu Âu và Trung Đông — oái ăm thay — cũng đã gieo rắc những nghi ngờ sự lâu bền sức mạnh Mỹ bên trong chính Châu Á.

Khả năng của chính quyền Obama trong việc bảo tồn Pax Americana cũng đã giảm sút do những vấn đề kinh niên của các đồng minh Châu Âu của Washington.Tuy có những cáo buộc về “sự yếu kém” nhắm vào chính quyền Obama, thực tế là Mỹ chắc chắn là phần vững mạnh nhất của liên minh phương tây. Với nền kinh tế Châu Âu đang khủng hoảng và chi tiêu quân sự Châu Âu giảm đi, Mỹ nay chiếm gần 75% chi tiêu quân sự của NATO.

Theo cách thiếu mạch lạc và thô lỗ của mình, Donald Trump đã chỉ đích danh một số thế lưỡng nan mới xuất hiện đối với sức mạnh Mỹ trong thời đại đông phương hóa. Ông đã đặt câu hỏi liệu Mỹ có thể tiếp tục gánh vác gánh nặng tài chính của việc bảo vệ các đồng minh Châu Âu và Châu Á của mình tránh khỏi sự xâm lấn khả dĩ của Nga hoặc Trung Quốc. Và ông cũng tự xưng là kẻ thù của “chủ nghĩa toàn cầu” và những thỏa thuận thương mại “kinh khủng” đã tạo nên khuôn khổ kinh tế quốc tế cho sự vươn lên của Châu Á.

Vì vậy chủ nghĩa Trump có thể tạo nên cả nguy cơ lẫn cơ hội cho Trung Quốc. Ở cấp độ địa chính trị, nó ngắm nghía tới chuyện giảm bớt sức mạnh Mỹ ở Thái Bình Dương — nếu vậy thì sẽ trao cho Bắc Kinh tầm ảnh hưởng mà Trung Quốc mong mỏi trong khu vực lân cận của mình. Nhưng về kinh tế, chủ trương bảo hộ quyết liệt của Trump đe dọa tất cả các nền kinh tế Châu Á đang vươn lên khi quyền tiếp cận thị trường lớn nhất thế giới — Mỹ — bị hạn chế đáng kể.

Đối với phe Clinton và phần lớn giới chóp bu Mỹ, công thức chính trị Trump là dị giáo địa chính trị và kinh tế. Tại đại hội Đảng Dân chủ ở Philadelphia tuần rồi, tôi nghe những cây đa cây đề của giới chóp bu chính sách đối ngoại Mỹ, ví như [cựu ngoại trưởng] Madeleine Albright và [cựu cố vấn an ninh quốc gia] Tom Donilon, khẳng định rằng việc duy trì các thị trường toàn cầu mở cửa và hệ thống liên minh Mỹ vẫn là hai trụ cột của chính sách đối ngoại Mỹ  — như từ năm 1945.

Nếu Clinton thắng cử vào tháng 11 thì có nghĩa là Mỹ sẽ kiên trì với công thức đã chứng tỏ là hiệu quả đó. Nhưng sự đông phương hóa của sức mạnh kinh tế và chính trị cho thấy thời kỳ phương tây chiếm vị thế thống lĩnh không bị ai thách thức sắp kết thúc  — bất kể ai sẽ thắng trong cuộc đua vào Tòa Bạch Ốc.

Nguồn: Gideon Rachman, War and peace in Asia, Financial Times, 5-8-2016.

(Bản lược dịch, ký tên Khương An, đã đăng trên Thời Mới-Canada ngày 17/8/2016)

Bản tiếng Việt © 2016 Phạm Vũ Lửa Hạ

Bài liên quan:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *