Giã từ vũ khí – Khi nào và tại sao phản kháng dân sự thành công (Kỳ 1)

Căn cứ trên nghiên cứu về lịch sử đấu tranh trên thế giới trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, Erica Chenoweth và Maria J. Stephan kết luận rằng các phong trào phản kháng bất bạo động có cơ may thành công và tạo biến đổi chính trị cao hơn các phong trào bạo động. Erica Chenoweth là phó giáo sư tại Trường Quốc tế học Josef Korbel của Đại học Denver và là nghiên cứu viên tại Viện Nghiên cứu Hòa bình Oslo. Maria J. Stephan là nghiên cứu viên cao cấp về chính sách tại Viện Hòa bình Mỹ và nghiên cứu viên cao cấp không thường trú tại Hội đồng Đại Tây Dương. Họ là tác giả của cuốn sách “Tại sao phản kháng dân sự thành công: Logic chiến lược của xung đột bất bạo động” (“Why Civil Resistance Works: The Strategic Logic of Nonviolent Conflict”).

Giã từ vũ khí

Khi nào và tại sao phản kháng dân sự thành công

Erica Chenoweth và Maria J. Stephan

Phạm Vũ Lửa Hạ dịch

Không vũ trang nhưng nguy hiểm: biểu tình ở Cairo, tháng 2/2011. (Yannis Behrakis / Reuters)
Không vũ trang nhưng nguy hiểm: biểu tình ở Cairo, tháng 2/2011. (Yannis Behrakis / Reuters)

Ba năm qua, thế giới chứng kiến sự tăng vọt các phong trào phản kháng bất bạo động. Hình ảnh về các cuộc biểu tình đông đảo ở các quảng trường đã xuất hiện thường xuyên trên các chương trình thời sự quốc tế, và tạp chí TIME đã chọn “người biểu tình” là Nhân vật Tiêu biểu trong năm 2011. Hiện nay, dường như bất cứ lúc nào cũng có hàng ngàn người đang vận động đòi thay đổi ở một nơi nào đó trên thế giới.

Nhưng các phong trào này có khác biệt rất lớn về thời gian diễn ra, thành công, và khả năng giữ trạng thái bất bạo động, và phí tổn về mạng người. Qua nhiều năm biểu tình và và đình công lúc có lúc không, người Tunisia đã lật đổ Zine el-Abidine Ben Ali, nhà độc tài đã cai trị đất nước này trong 23 năm, sau đợt biểu tình kéo dài 28 ngày bắt đầu vào tháng 12/2010. Có từ 300 đến 320 thường dân Tunisia chết trong chính biến này, tất cả đều bị cảnh sát hay các lực lượng an ninh sát hại. Mấy tuần sau, người Ai Cập kết thúc triều đại ba chục năm của Hosni Mubarak sau khi một thập niên chống đối và phản kháng dân sự ở mức độ thấp lên đến cực điểm trong 18 ngày biểu tình quần chúng bất bạo động – nhưng trong quá trình đó các lực lượng an ninh của Mubarak sát hại khoảng 900 người. Ở Libya, các cuộc biểu tình rải rác chống Muammar al-Qaddafi bắt đầu vào tháng 2/2011 đã biến thành một cuộc nổi loạn có vũ trang. Chẳng bao lâu sau, NATO can thiệp bằng quân sự, và trong vòng chín tháng, Qaddafi chết và chế độ của ông bị lật đổ, nhưng theo nhiều ước tính khác nhau, có từ 10.000 đến 30.000 người Libya đã thiệt mạng. Ở Syria, Bashar al-Assad đã đàn áp tàn bạo các cuộc biểu tình từ tháng 3 đến tháng 8/2011 phần lớn là bất bạo động chống lại ách cai trị của ông, giết chết hàng ngàn người và dẫn đến một cuộc nội chiến mà đến nay đã làm thiệt mạng hơn 150.000 người và khiến khoảng chín triệu người lâm vào cảnh loạn lạc. Gần đây nhất, hồi tháng 2, người Ukraine lật đổ Tổng thống Viktor Yanukovych sau ba tháng phản kháng dân sự quần chúng và các cuộc biểu tình thỉnh thoảng có bạo động. Khoảng 100 người biểu tình Ukraine chết trong những cuộc đụng độ giữa người biểu tình và cảnh sát chống bạo động – ít hơn so với phần lớn các cuộc đối đầu của Mùa xuân Ả rập hồi năm 2011. Nhưng phản ứng của Nga trước việc Yanukovych bị lật đổ – chiếm đoạt lãnh thổ Crimea thuộc Ukraine và tìm cách gây mất ổn định các vùng miền đông Ukraine – đã tạo ra tình hình an ninh nguy hiểm nhất và khó lường nhất ở Châu Âu trong mấy thập niên qua.

Quỹ đạo cơ bản của những phong trào gần đây – mỗi phong trào sau dường như có tính bạo động hơn và đậm chất địa chính trị hơn phong trào trước – đã gây nghi ngờ về triển vọng của phản kháng dân sự trong thế kỷ 21. Những nỗi nghi ngờ như vậy là điều dễ hiểu, nhưng sai lầm. Cần có một tầm nhìn dài hạn hơn để thấy tiềm năng thật sự của phản kháng bất bạo động; tiềm năng này hiện rõ trong bộ dữ liệu lịch sử mà chúng tôi thu thập về 323 phong trào diễn ra trong thế kỷ 20 – từ  phong trào của Mahatma Gandhi để Ấn Độ giành độc lập từ thực dân Anh (bắt đầu mạnh mẽ vào năm 1919) đến các cuộc biểu tình hạ bệ Thủ tướng Thái Lan Thaksin Shinawatra năm 2006. Bộ dữ liệu toàn cầu bao gồm tất cả các phong trào bất bạo động và bạo động đã được biết (mỗi phong trào có ít nhất 1.000 người tham gia được quan sát) để đòi quyền tự quyết, phế truất một nhà lãnh đạo đang cầm quyền, hay đánh đuổi quân ngoại xâm từ năm 1900 đến 2006. Bộ dữ liệu này được thu thập qua sử dụng hàng ngàn tư liệu gốc về biểu tình và bất tuân dân sự, các khảo sát và báo cáo chuyên môn, và những hồ sơ hiện có về các cuộc khởi nghĩa bạo động.

Từ năm 1900 đến 2006, các phong trào phản kháng bất bạo động chống lại các chế độ độc tài có cơ may thành công gấp đôi so với các phong trào bạo động. Phản kháng bất bạo động cũng tăng xác suất mà việc lật đổ một chế độ độc tài sẽ dẫn đến hòa bình và sự cai trị bằng dân chủ. Điều này thậm chí cũng đúng ở các quốc gia độc tài và đàn áp cao độ, những nơi mà ta có thể cho rằng phản kháng bất bạo động có thể thất bại. Khác với quan niệm thông thường, không một cấu trúc xã hội, kinh tế, hay chính trị nào từng ngăn cản một cách hệ thống không cho các phong trào bất bạo động xuất hiện hay thành công. Từ đình công và phản đối đến biểu tình ngồi và tẩy chay, phản kháng dân sự vẫn là chiến lược tốt nhất để tạo ra biến đổi xã hội và chính trị khi có áp bức. Các phong trào chọn phương pháp bạo động thường gây ra cảnh hủy diệt và tắm máu kinh hoàng, cả trước mắt lẫn về lâu về dài, mà thường không đạt được các mục tiêu đề ra ban đầu. Dù hiện nay vẫn còn cảnh hỗn loạn và nỗi lo sợ từ Cairo đến Kiev, vẫn có nhiều lý do để lạc quan một cách thận trọng về triển vọng hứa hẹn của phản kháng dân sự trong những năm sắp đến.

Ở Mỹ và Châu Âu, giới quyết định chính sách thường bối rối khi đối mặt với câu hỏi có nên hậu thuẫn thường dân chống lại các chế độ độc tài bằng phản kháng bất bạo động và, nếu có, thì nên hậu thuẫn bằng hình thức nào. Giới chủ trương can thiệp có đầu óc tự do viện dẫn nguyên tắc “trách nhiệm bảo vệ” thường dân để biện giải cho sự can thiệp của NATO ở Libya và cũng đã dùng đến lập luận đó để cổ xúy cho hành động can thiệp tương tự ở Syria. Nhưng triển vọng hứa hẹn của phản kháng dân sự đề xuất một phương án khác: “trách nhiệm hỗ trợ” các nhóm hoạt động và xã hội dân sự từ sớm, trước khi các cuộc đối đầu giữa thường dân và các chế độ độc tài sa lầy thành các cuộc xung đột bạo động.

Quyền lực cho nhân dân

Phản kháng dân sự thành công không phải vì nó làm mủi lòng các nhà độc tài và bọn mật vụ. Phản kháng dân sự thành công vì so với đấu tranh có vũ trang, nó cơ may lớn hơn để thu hút lực lượng tham gia nhiều hơn và đa dạng hơn, và gây những phí tổn không bền vững đối với một chế độ. Phản kháng dân sự thì mỗi phong trào mỗi khác, nhưng các phong trào thành công đều có ba điểm chung: có sự tham gia của đông đảo quần chúng, khiến nhiều người từ bỏ chế độ, và áp dụng các chiến thuật linh hoạt. Theo dữ liệu lịch sử, phong trào càng lớn và càng đa dạng, thì càng có cơ may thành công. Những phong trào lớn có xác suất lớn hơn để thật sự làm đảo lộn hiện trạng, tăng phí tổn của việc chính quyền đàn áp, và kêu gọi các thành phần ủng hộ trụ cột của chế độ từ bỏ chế độ. Khi đông đảo người dân tham gia vào các hoạt động quấy rối và bất tuân dân sự, bằng cách luân phiên thay đổi giữa các phương pháp tập trung như biểu tình và các phương pháp phân tán như các đợt tẩy chay của người tiêu dùng và đình công, ngay cả đối thủ tàn bạo nhất cũng khó lòng đàn áp và khó lòng áp bức mãi. Mohammad Reza Pahlavi, quốc vương cuối cùng của Iran, dễ dàng vô hiệu hóa các nhóm du kích Hồi giáo và thiên hướng Marxist từng chống lại chế độ cai trị của ông trong thập niên 1960 và đầu thập niên 1970. Nhưng khi đông đảo công nhân dầu mỏ, tiểu thương, và sinh viên tham gia các hoạt động phản kháng dân sự tập thể, trong đó có ngừng làm việc, tẩy chay, và biểu tình, bộ máy đàn áp của chế độ bị quá tải và nền kinh tế sa sút. Với tình cảnh đó, chẳng bao lâu sau quốc vương đành phải chạy trốn ra nước ngoài.

Sự hậu thuẫn trên diện rộng cho một phong trào phản kháng cũng có thể làm suy yếu lòng trung thành của giới chóp bu kinh tế, giới chức tôn giáo, và các thành phần báo chí nhà nước ủng hộ chế độ. Khi những nhân vật như vậy từ bỏ chế độ để đứng về phía chống đối, đôi khi họ có thể buộc chế độ đầu hàng trước các yêu sách của phe chống đối, như đã xảy ra với phong trào Quyền lực Nhân dân của Philippines trong thời kỳ 1983–1986. Những phong trào rộng lớn cũng có lợi thế về chiến thuật: các phong trào đa dạng, bất bạo động có sự tham gia của phụ nữ, giới chuyên gia, các nhân vật tôn giáo, và công chức – khác với các phong trào bạo động chủ yếu chỉ bao gồm các thanh niên khỏe mạng để huấn luyện thành chiến binh – giảm rủi ro bị đàn áp bằng vũ lực, vì các lực lượng an ninh thường ngần ngại dùng vũ lực chống lại những đám đông có thể bao gồm hàng xóm và thân nhân của họ. Và ngay cả khi chính quyền dùng vũ lực đàn áp các phong trào phản kháng, trong tất cả các trường hợp được nghiên cứu, các phong trào bất bạo động vẫn đạt được các mục tiêu của mình trong gần một nửa số trường hợp, trong khi chỉ có 20 phần trăm trong số các phong trào bạo động đạt được mục tiêu của mình, vì đại đa số trường hợp không thể huy động được mức độ hậu thuẫn của quần chúng hay khuyến khích được đủ số người từ bỏ chế độ cần để giành thắng lợi. Trong những trường hợp các lực lượng an ninh vẫn trung thành với chế độ, số người thuộc giới chóp bu kinh tế từ bỏ chế độ có thể đóng vai trò hệ trọng. Ở Nam Phi, các vụ tẩy chay chống lại doanh nghiệp của người da trắng và những trường hợp giới đầu tư quốc tế rút vốn khỏi các doanh nghiệp Nam Phi đã có tính quyết định trong việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc.

Nhưng phản kháng dân sự cần có không chỉ sự tham gia của đông đảo quần chúng và số người từ bỏ chế độ, mà còn cần có sự hoạch định và các chiến thuật được phối hợp. các phong trào bất bạo động thành công hiếm khi mang tính tự phát, và giới quan sát đừng nên ngộ nhận vì sự sụp đổ có vẻ nhanh chóng của các chế độ Ben Ali và Mubarak: cả hai cuộc cách mạng này đều bắt nguồn từ các phong trào đấu tranh của người lao động và phong trào chống đối đã có từ gần một thập niên. Thật vậy, từ năm 1900 đến 2006, tính trung bình một phong trào bất bạo động kéo gần ba năm. Như Robert Helvey, một đại tá Lục quân Mỹ đã về hưu từng tổ chức các lớp học về phản kháng dân sự ở Myanmar (còn gọi là Miến Điện), các vùng lãnh thổ Palestine, và Serbia trong thập niên 1990 và những năm đầu của thế kỷ này, nói với những nhà hoạt động tham gia các lớp học của ông: nếu họ muốn phong trào của mình thành công trong một năm, họ nên hoạch định như thể cuộc đấu tranh sẽ kéo dài trong hai năm.

Trong thập niên 1980 ở Mỹ, Helvey đã cộng tác chặt chẽ với học giả Gene Sharp, người đã xác định 198 chiến thuật khác nhau mà các phong trào phản kháng bất bạo động sử dụng. Các chiến thuật này bao gồm những phương pháp khác nhau về biểu tình, thuyết phục, bất hợp tác, và điều mà Sharp gọi là “sự can thiệp bất bạo động” – tất cả đều đã thành công trong các bối cảnh khác nhau. Các học giả tinh thông về công nghệ, chẳng hạn như Patrick Meier và Mary Joyce, đã cập nhật danh sách của Sharp để bao gồm các chiến thuật liên quan đến các công nghệ mới, ví dụ như dùng mạng xã hội để báo cáo những hành động đàn áp ngay khi chúng xảy ra và thậm chí dùng các máy bay không người lái loại nhỏ để theo dõi các hoạt động của cảnh sát.

Ngay cả các phong trào có đủ cả ba đặc điểm quý báu này – sự tham gia của quần chúng, những trường hợp từ bỏ chế độ, và các chiến thuật linh hoạt – không phải lúc nào cũng thành công. Còn phụ thuộc nhiều vào việc liệu chính quyền có khôn ngoan hơn những người chống đối và gây chia rẽ trong hàng ngũ của phe chống đối, có thể thậm chí xúi giục những người phản kháng bất bạo động từ bỏ những cuộc biểu tình và đình công của mình, phá vỡ kỷ cương và mất đoàn kết, và cầm súng để đáp trả sự đàn áp. Nhưng ngay cả khi các phong trào bất bạo động thất bại, không phải tất thảy thành công cốc: từ năm 1900 đến 2006, các quốc gia có những phong trào bất bạo động thất bại vẫn có xác suất rốt cuộc chuyển sang nền dân chủ cao hơn khoảng bốn lần so với những quốc gia có các phong trào phản kháng dùng phương pháp bạo động ngay từ đầu. Việc vận động dân sự bất bạo động phụ thuộc vào tính linh hoạt và xây dựng liên minh – đây cũng chính là những điều cần có cho việc dân chủ hóa.

Tất nhiên, những nhà cách mạng bất bạo động không nhất thiết có đủ năng lực cai trị đất nước trong quá trình chuyển tiếp chính trị. Ví dụ, ở Ai Cập những thanh niên hoạt động thế tục từng biểu tình ở Quảng trường Tahrir hồi tháng 1 và tháng 2 năm 2011 đã không tổ chức được các đảng chính trị hay các nhóm quyền lợi. Các cuộc nổi dậy quần chúng bất bạo động không thể luôn luôn giải quyết được những vấn đề cai trị đất nước mang tính hệ thống, chẳng hạn như các thể chế dựa vào quan hệ bè phái, nạn tham nhũng ăn sâu, và sự thiếu chia sẻ quyền lực giữa quân đội hoặc các lực lượng an ninh của một chế độ và bộ máy hành chính dân sự.

Nhưng các phong trào cách mạng vẫn có thể tối đa hóa xác suất đạt được mục đích cai trị đất nước mang tính đại diện hơn – xác suất đưa những thành công của biểu tình trên đường phố vào các trung tâm quyền lực – nếu các phong trào này tạo dựng cái gọi là các thể chế song song trong quá trình đấu tranh của mình. Ba Lan là một trong những ví dụ điển hình nhất. Năm 1980, sau khi khoảng 16.000 công nhân tiến hành một cuộc đình công ở xưởng đóng tàu Gdansk, các tổ chức lao động Ba Lan (vốn đã kêu gọi chống đối chế độ cộng sản được Liên Xô hậu thuẫn ở Ba Lan trong suốt một thập niên) đã thành lập Công đoàn Đoàn kết; công đoàn này đã biến thành một phong trào phản kháng dân sự và khiến chính quyền cộng sản mất dần khả năng kiểm soát đất nước. Công đoàn Đoàn kết đã xuất bản những tờ báo đối kháng bí mật, tổ chức các cuộc biểu tình và những buổi diễn kịch cấp tiến ở các nhà thờ, và phản đối những năm bị đàn áp, trong đó có việc áp đặt thiết quân luật vào năm 1981. Rốt cuộc có đến mười triệu người Ba Lan tham gia tổ chức này. Công đoàn Đoàn kết hoạt động như một kiểu chính phủ đối lập, tạo năng lực đảm nhận vai trò lãnh đạo khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ. Năm 1988, Công đoàn Đoàn kết tổ chức một loạt các cuộc đình công, và các cuộc đình công này đã dẫn đến những cuộc đàm phán trực tiếp với chế độ, với kết quả là kỳ bầu cử bán tự do vào năm 1989. Một năm sau, Ba Lan thoát khỏi ách cai trị của cộng sản với những luật lệ và tập quán bầu cử mới, trong đó có nhiều luật lệ và tập quán được Công đoàn Đoàn kết góp phần tạo nên thông qua một loạt các cuộc đàm phán, tạo điều kiện cho giai đoạn chuyển tiếp bền vững và tự tin hơn sang nền dân chủ. Tuy vẫn còn nhiều vấn đề, xã hội dân sự Ba Lan đã hoàn toàn đủ năng lực buộc giới lãnh đạo mới của mình chịu trách nhiệm giải trình – trong đó chủ tịch Công đoàn Đoàn kết Lech Walesa, người được bầu làm tổng thống năm 1990.

(Còn tiếp 1 kỳ: Kỳ cuối)

Nguồn: Erica Chenoweth and Maria J. Stephan, Drop Your Weapons, Foreign Affairs, July/August 2014.

Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Vũ Lửa Hạ

(Một phần của bản dịch tiếng Việt, ký tên Khương An, đã đăng trên Thời Mới Canada, ngày 2/7/2014. Bài đăng trên blog này là bản dịch trọn vẹn.)

Bài liên quan:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *