Trước hai lượt trận đấu loại trực tiếp (playoff) giữa Bồ Đào Nha và Thụy Điển, diễn ra ngày 15/11 và 19/11/2013, để giành vé dự World Cup 2014, hôm 14/11 trang mạng Goal.com mời hai cây bút Paul Macdonald và Robin Bairner tranh luận về chuyện “Ronaldo vs. Ibrahimovic – Who does the World Cup need more?”.
Lời dẫn của Goal.com viết: “Two of the best players in the world go head to head for a shot at immortality – but which icon is essential for the tournament’s success?” Câu hỏi xác định ngay chủ đề là giữa hai danh thủ thuộc hàng xuất sắc nhất thế giới này, ai sẽ có đóng góp quan trọng cho thành công của World Cup, chứ không phải ai giỏi hơn ai.
Cả hai siêu sao này đều được xem là biểu tượng (icon), chí ít cũng là ở quê hương. Nhưng “Bất đáo Trường Thành phi hảo hán”, chưa giúp đội tuyển quốc gia giành được World Cup thì chưa đi vào sử sách bóng đá được. Để thành bất tử như Pele, Maradona, hay Zidane, CR7 và Ibra phải đối đầu với nhau – go head to head for a shot at immortality. Câu này chơi chữ với thành ngữ have (hoặc take) a shot at something nghĩa là thử làm / thử sức (to try to do something, often for the first time) vì từ shot có nghĩa đen là cú sút. (Đừng nhầm lẫn với have a shot at somebody, nghĩa là chỉ trích / phê phán ai.)
Lời dẫn còn có câu: “Sweden and Portugal will look to their talismen in order to secure passage to the promised land, but the presence of which superstar would enrich the World Cup more?” Văn phong bình luận bóng đá không thiếu lối nói thậm xưng hay những mỹ từ kiểu miền đất hứa (the promised land); có lẽ báo chí tiếng Việt cũng nhiễm kiểu viết này, ví như Sông Hàn cuốn trôi Sông Lam khi Đà Nẵng thắng đậm Sông Lam Nghệ An. Đáng nói là câu trên có một chỗ dùng từ sai. Talisman (số nhiều talismans) nghĩa là bùa hay phép màu, không liên quan gì đến từ man. Vì nhầm lẫn nên tác giả viết số nhiều là talismen, có lẽ muốn hàm ý vị cứu tinh hoặc thần hộ mệnh; chữ tiếng Việt thường dùng trong tình huống này là linh hồn (của đội bóng).
The Best Player in the World Must Be in Brazil
Trong phần của mình, Paul Macdonald mở đầu: “Whether the football community agrees by handing him the FIFA Ballon d’Or or not, Cristiano Ronaldo is, at the moment, the finest player in the world by a considerable distance. With that in mind, the argument is simple: the World Cup needs the world’s preeminent exponent of the game.”
CR7 chưa bao giờ được giao giải Quả Bóng Vàng FIFA. Giải thưởng Quả Bóng Vàng nguyên thủy do tạp chí France Football trao hàng năm cho cầu thủ xuất sắc nhất Châu Âu, từ năm 1956 đến 2009. Từ năm 2010, giải này sáp nhập chung với giải FIFA World Player of the Year dành cho nam cầu thủ xuất sắc nhất trong năm, và vẫn giữ gốc tiếng Pháp trong tên mới FIFA Ballon d’Or (chứ không dịch thành Golden Ball).
Theo ông, CR7 hiện nay là cầu thủ xuất sắc nhất, không ai sánh kịp. Cụm từ by a considerable distance hàm ý vô song / bỏ xa / ăn đứt, có liên tưởng đến thành ngữ win by a distance thường dùng trong đua ngựa. Do vậy, đại diện ưu tú (preeminent exponent) của bóng đá cần có mặt ở World Cup.
Câu tiếp theo có một từ dễ bị hiểu sai: The World Cup as an event faces pressure to remain relevant. Từ relevant ở đây không có nghĩa thông thường là thích hợp / phù hợp / có liên quan; mà là having social relevance. Để thấm hơn về nghĩa này, thử xem ví dụ sau do từ điển Merriam-Webster dẫn: “… the sport [men’s tennis] is so invisible to the American fan that it’s in danger of becoming as relevant as – gasp – soccer” (Mike Freeman, NewYork Times, 1/9/2002). Người Mỹ chỉ khoái những môn thể thao như baseball, [American] football, hay basketball, chứ mấy ai mê bóng đá (nói theo tiếng Mỹ là soccer). Bởi vậy, nói môn quần vợt nam có nguy cơ trở nên as relevant as soccer tức là chê irrelevant – hết thời, chẳng còn phổ biến, chẳng ai thèm coi hay màng tới nữa (từ gasp là để bày tỏ vẻ thảng thốt, ngạc nhiên, kiểu như trời ạ / mèn đéc ơi).
Thời thế thay đổi nên World Cup phải chật vật để giữ vị thế là giải đấu (event) hấp dẫn được người hâm mộ. Winning the Champions League is now regarded as the pinnacle, and club football has exponentially increased in popularity as commentators look to question the merits of the international game. Năm xưa, hình ảnh Pele với cúp vàng thế giới được đồng đội công kênh biểu trưng cho tột đỉnh vinh quang. Ngày nay đỉnh cao thành tích (pinnacle) chính là chiếc cúp Champions League, và bóng đá cấp câu lạc bộ quá phổ biến với đông đảo người hâm mộ khắp nơi (thử nghĩ tới Manchester United hay Real Madrid), đến nỗi giới bình luận nghi ngờ giá trị của World Cup.
Bởi vậy, it needs the type of performance from a global star that the tournament itself can become synonymous with. Mỗi kỳ World Cup thường gắn với tên tuổi của một danh thủ; 1966 có Viên ngọc đen (Black Pearl) Eusebio, 1994 có Roberto Baggio với biệt danh [Tóc] Đuôi ngựa thần thánh (Il Divin’ Codino, The Divine Ponytail), 2002 có Ronaldo siêu đẳng đến nỗi được gọi là the phenomenon.
Những cầu thủ tài năng nhất của thế hệ hiện nay chưa thành vĩ nhân trên đấu trường World Cup như Pele và Maradona năm xưa. (The most individually gifted players of the current generation haven’t crystallized their greatness internationally in the same way that Pele and Diego Maradona did before them …) Tiện thể, trong bóng đá, từ internationally và international thường có nghĩa hơi khác quốc tế một chút. International(ly) thường để chỉ hoạt động bóng đá ở cấp đội tuyển quốc gia. Ví dụ, international friendly là trận giao hữu giữa tuyển hai nước; international career là sự nghiệp thi đấu cho đội tuyển quốc gia (khác với club career) và mỗi lần khoác áo đội tuyển gọi là [international] cap; cầu thủ tuyển Việt Nam là Vietnam international (không dùng Vietnamese); international break hoặc international week là đợt / tuần ngưng thi đấu cấp câu lạc bộ để các đội tuyển quốc gia triệu tập cầu thủ cho các trận đấu vòng loại (qualifier nói chung, hay cụ thể là loại trực tiếp kiểu playoff) hoặc giao hữu.
Có người cho rằng chừng nào CR7 và Messi chưa dùng tài năng của mình để khiến thiên hạ nhớ tới mình khi nhắc đến một giải World Cup thì chưa được lưu danh hậu thế. ( … and in the eyes of some, Cristiano and sparring partner Lionel Messi can’t be considered part of that particular pantheon until a World Cup is defined by their genius.) Cách dùng từ sparring partner (nghĩa đen người đấu tập với võ sĩ quyền Anh) ở đây gợi hình ảnh so kè quen thuộc giữa hai danh thủ hàng đầu hiện nay từ thành tích, kỷ lục ghi bàn, đến vị trí trong các giải thưởng cá nhân hàng năm. Còn pantheon là đền thờ thần thánh hay danh nhân.
Đoạn tiếp theo toàn những lời có cánh ca tụng tài năng siêu phàm (transcendence) của Ronaldo, mà nếu chàng không được dịp thi thố ở World Cup thì quá oái ăm, quá thiệt cho mọi người mê bóng đá. Ronaldo could, quite conceivably, achieve that level of transcendence, and it would be a travesty if he is denied the opportunity to do so. He is completely and utterly in his prime, obliterating goal records, and appears unstoppable. Yes, his Portugal side isn’t one of the favorites, but it’s almost irrelevant. For now he appears superhuman, indestructible, and in optimum physical condition, ready to dismantle teams on his own. At this point it almost feels like destiny is calling, and if the World Cup was to miss out on an act of era definition, it would be a loss to us all. Cụm từ an act of era definition liên hệ trở lại ý ở đoạn trên về các danh thủ đánh dấu thời đại của mình bằng tài năng phô diễn ở các kỳ World Cup, để thiên hạ phải kêu tên mình khi nhắc tới thời đó.
Khỏi cần bàn cãi về chuyện sự nghiệp của CR7 đã quá thành công về mặt tiền bạc, và túi anh càng rủng rỉnh với biết bao hợp đồng quảng cáo của anh với Nike và những hãng khác tài trợ cho World Cup. Of course, commercially it is a no contest – Nike and the countless corporations that will be omnipresent in Brazil can take Ronaldo to the bank. But, from a purist’s perspective, a World Cup without this Cristiano – the flying, flawless, fantastic Cristiano – would simply feel incomplete. Với những ai mê vẻ đẹp thuần khiết của bóng đá, vốn được gọi là the Beautiful Game, World Cup mà vắng bóng nghệ sĩ bóng tròn CR7 bay bướm và hoàn mỹ thì khác gì rượu ngon lại thiếu bạn hiền.
The Tournament Needs His Skills and Personality
Robin Bairner thừa nhận cả Ronaldo và Zlatan Ibrahimovic đều là outstanding footballers. Tuy nhiên, the languid Swede deserves this opportunity to showcase his wares on the world stage. Cụm từ to showcase his wares nghĩa là phô diễn tài năng, chứ đừng bị nhiễm báo lá cải mà hiểu là lộ hàng. J
Đã 32 tuổi rồi nên rất có thể đây là dịp cuối để Ibra play a starring role (đóng vai chính) in a World Cup. Bairner cũng cho rằng World Cup sẽ lợi đơn lợi kép nếu Ibra góp mặt với cả tài năng đang ở đỉnh cao và cả tính cách của anh (there can be little doubt the tournament would benefit enormously for having not only his skills, which are perhaps at their very peak presently, but also his personality on show).
Bằng chứng: tiền đạo này đang đạt phong độ (form) tuyệt vời với tỉ lệ gần một bàn mỗi trận, và tự tin hơn trên đấu trường lớn nhờ tính tình ngày càng chín chắn. Từ muster trong câu này vừa nhấn mạnh nỗ lực vừa gợi liên tưởng mỗi trận đấu là một cuộc chiến. (The Paris Saint-Germain striker’s form this season has been remarkable. In terms of his goalscoring talents, he has mustered close to a goal a game, including six in three Champions League outings, and his increasingly mature demeanor on the field means that he is performing with added confidence on the big stage.) Nhân cái ý confidence on the big stage, xin nói lạc đề một chút. Có những cầu thủ giỏi ghi bàn, nhưng bước vào trận đánh lớn là cúm, đá chẳng ra gì, và bị gọi là big game flop.
Không ai sánh nổi khả năng ghi bàn đa dạng của Ibra. Moreover, his versatility in front of goal is unparalleled. From his fierce long-range drive against Anderlecht to his impossible scorpion kick versus Bastia – and let’s not forget his Puskas Award-nominated overhead kick for Sweden against England last year – Ibrahimovic has a full gambit when it comes to putting the ball in the net. Cú sút từ xa là long-range drive; scorpion kick là cú bay người móc bóng ngược bằng gót chân khi bụng hướng xuống đất lưng lên trời (không biết tiếng Việt có từ này chưa?), còn overhead kick là cú bay người móc ngược bằng mũi chân khi lưng hướng xuống đất (tiếng Việt đã có từ cú ngã bàn đèn). Cú ngã bàn đèn của Ibra trong trận giao hữu Thụy Điển – Anh ngày 13/11/2012 được đề cử giải thưởng Puskas (của FIFA trao cho bàn thắng đẹp nhất) năm 2013. Gambit là thế khai cuộc trong môn cờ, nhưng ở đây hiểu là chiêu / thủ thuật. For this reason, he is perhaps the world’s most mercurial and entertaining player.
Ibra không chỉ mercurial (khó đoán) trên sân cỏ. However, Ibra’s unpredictability is not restricted to events on the field. The outspoken Swede carries with him an ego matched only by his footballing talent, marking him out as one of football’s few remaining media personalities. Media personality là nhân vật nổi đình nổi đám, được báo chí săn đuổi, bàn tán nhiều, ví như huấn luyện viên Jose Mourinho.
Bairner viết tiếp: “He is a true leader of a workmanlike Sweden team that has the potential to repeat one of the great World Cup runs, when, in 1994, the team pushed Brazil all the way in a tight semifinal before eventually finishing third courtesy of a playoff success over Bulgaria.” Những đội như Thụy Điển thường không chuộng lối đá quá bay bướm, mà có tính chất workmanlike, tức là chú trọng hiệu quả, đôi khi máy móc đến phát chán cho người xem. Câu này nhắc đến chuyện Thụy Điển chỉ thua sít sao Brazil trong trận bán kết World Cup 1994, và giành hạng 3 sau khi thắng Bulgaria. Từ playoff hơi khác một chút với ở đầu bài; ở đây là trận tranh 3-4. Bairner cho rằng Ibra có khả năng giúp Thụy Điển biến giấc mơ [vô địch] World Cup thành hiện thực, và mang lại nét lãng mạn mà giải đấu này còn thiếu (Ibrahimovic is the Roy of the Rovers-type character who could make such a fairy tale run become reality and give the competition a romanticism it might otherwise lack). Roy of the Rovers là loạt truyện tranh bóng đá với nhân vật chính là Roy Race, danh thủ của đội Melchester Rovers (bản thân cái tên này nhại Manchester và Blackburn Rovers). Cụm từ a fairy tale run cũng gợi nhớ lại thành công như chuyện cổ tích của Đan Mạch năm 1992 từ chỗ được gọi vào giờ chót để thay thế Nam Tư bị truất quyền tham dự tới chỗ bất ngờ vô địch Châu Âu.
Bairner kết luận: “Brazil next summer would be a brighter place with Ibrahimovic’s utterly unique talents and controversial comments. It may well be the last chance we get to see one of the game’s great entertainers on such a grandiose stage.” Vậy đó, giải 2014 ở Brazil sẽ tươi vui hơn nếu có Ibra với tài năng vô song và những phát biểu không giống ai. Từ entertainer khá hay vì Ibra vừa đá coi sướng mắt trên sân cỏ vừa phát biểu nghe đã lỗ tai ngoài sân cỏ.