Mark Landler
Thoạt nghe có vẻ lạ trong một kỷ nguyên của chiến tranh trên mạng internet và những cuộc tấn công bằng máy bay không người lái, nhưng mặt trận mới nhất trong cuộc đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc là một vùng biển nhiệt đới, tại đó động cơ khai thác trữ lượng dầu và khí đốt dồi dào ngoài khơi đã châm ngòi một cuộc xung đột giống như kiểu ngoại giao tàu chiến trong thế kỷ 19.
Chính quyền Obama lần đầu tiên can dự vào vùng Biển Đông đầy trắc trở hồi năm ngoái khi Ngoại trưởng Hillary Rodham Clinton tuyên bố, tại một cuộc họp căng thẳng của các nước Châu Á ở Hà Nội, rằng Mỹ sẽ tham gia với Việt Nam, Philippines và các nước khác trong việc chống lại những nỗ lực của Bắc Kinh nhằm thống lĩnh vùng biển này. Không có gì ngạc nhiên khi Trung Quốc giận dữ trước điều mà nước này xem như sự can thiệp của Mỹ.
Tuy gợi nhớ lại thế kỷ 19, đó là chưa kể cuộc chiến tranh lạnh, cuộc đối đầu ở Biển Đông báo hiệu một loại hình mới của xung đột trên biển – kiểu xung đột đang diễn ra từ Địa Trung Hải cho tới Bắc Băng Dương, trong đó những cường quốc kinh tế khát nhiên liệu, những nguồn dồi dào năng lượng dưới biển mới tiếp cận được và thậm chí những thay đổi về khí hậu của trái đất đang cùng nhau tạo nên một cuộc tranh giành các vùng biển trong thế kỷ 21.
Trung Quốc không phải là nước duy nhất có tham vọng trên biển. Thổ Nhĩ Kỳ đã từng đụng độ với Síp (Cyprus) và gây căng thẳng với Hy Lạp và Israel về các mỏ khí đốt tự nhiên nằm dưới vùng biển phía đông Địa Trung Hải. Nhiều cường quốc, trong đó có Nga, Canada và Mỹ, đang tích cực rảo quanh Bắc Cực, tại đó băng địa cực đang tan dần mở ra những tuyến đường vận tải hàng hải và khả năng rất hấp dẫn của những mỏ dầu và khí đốt bao la dưới biển.
“Cuộc săn tìm tài nguyên này sẽ chiếm lĩnh những vùng nước mênh mông khắp thế giới trong ít nhất vài thập niên nữa,” Ngoại trưởng Clinton nói trong một cuộc phỏng vấn gần đây, mô tả cuộc cạnh tranh toàn cầu nghe giống như một Cuộc Cờ Đại Chiến1 trên biển.
Những căng thẳng như vậy chắc chắn sẽ theo chân Tổng thống Obama tuần này, khi ông họp với các lãnh đạo của Trung Quốc và những nước Châu Á khác ở Honolulu và trên đảo Bali của Indonesia. Các quan chức trong chính quyền đã nói họ hy vọng tất cả các bên sẽ dẹp bớt các bất đồng, mặc dù điều đó sẽ không che đậy những cuộc xung đột sắp tới.
Daniel Yergin, một chuyên gia năng lượng và tác giả của cuốn sách mới “The Quest: Energy, Security, and the Remaking of the Modern World” (Cuộc tìm kiếm: Năng lượng, An ninh và Sự tái tạo Thế giới Hiện đại) nhận xét: “Tiềm ẩn đằng sau toàn bộ tình hình này là việc công nhận rằng ngày càng có tỉ lệ lớn các tài nguyên dầu nằm ở ngoài khơi. Khi ta có các tài nguyên năng lượng nằm trên đất liền, ta biết rõ đâu ra đâu. Khi chúng nằm ngoài khơi, mọi việc trở nên mơ hồ hơn”.
Theo tác giả Yergin, hiện nay mỗi ngày có hai mươi chín triệu thùng dầu, một phần ba sản lượng toàn cầu, xuất phát từ các mỏ ngoài khơi. Riêng Biển Đông ước tính có trữ lượng 61 tỉ thùng dầu và khí, cộng với 54 tỉ thùng chưa được khám phá, trong khi đó vùng Bắc Cực dự đoán có 238 tỉ thùng, cộng với những nguồn chưa khám phá có thể gấp đôi số đó.
Khi các quốc gia chạy đua dựng dàn khoan và đưa tàu thăm dò dầu rà soát lòng biển, những tuyên bố chủ quyền trên biển mâu thuẫn nhau đang góp phần châm ngòi một cuộc chạy đua vũ trang hải quân. Không phải là trùng hợp ngẫu nhiên khi các quốc gia có lực lượng hải quân tăng nhanh nhất là những nước có phần trong những vùng năng lượng này.
Trung Quốc tăng từ 2 tàu khu trục sản xuất từ thời Liên Xô vào năm 1990 lên đến 13 tàu khu trục hiện đại vào năm 2010, theo Viện Quốc tế về Nghiên cứu Chiến lược ở Luân Đôn. Trong công cuộc đẩy mạnh hải quân có khả năng tác chiến ở những vùng nước sâu ngoài khơi đại dương (blue-water navy), Trung Quốc cũng đang xây dựng hàng không mẫu hạm. Malaysia và Việt Nam đang tăng cường hải quân của mình với những chiến hạm và tàu ngầm. Ấn Độ do đang muốn bảo đảm tiếp cận được vùng Viễn Đông nên cũng tăng cường. Và Hải quân Israel đang yêu cầu tăng thêm tàu để đương đầu với những tàu chiến Thổ Nhĩ Kỳ đang vây quanh những giàn khoan của Israel.
David L. Goldwyn, nguyên đặc sứ về các vấn đề năng lượng quốc tế của Bộ Ngoại giao Mỹ, nói: “Các quốc gia muốn bảo đảm rằng họ có khả năng phát triển tài nguyên và bảo đảm rằng những tuyến đường giao thương của họ được bảo vệ”.
Cuộc cạnh tranh này cũng nguyên do của những lời kêu gọi Mỹ củng cố sức mạnh hải quân của mình, ngay cả trong thời kỳ cắt giảm ngân sách. Mitt Romney, được nhiều người xem là ứng viên dẫn đầu của đảng Cộng hòa trong cuộc đua bầu cử tổng thống, gần đây đã tuyên bố rằng ông sẽ “đảo ngược tình trạng rỗng ruột của Hải quân của chúng ta và tuyên bố một sáng kiến tăng tỉ lệ xây dựng hạm đội từ 9/năm lên 15/năm”. Theo giới phân tích, với tỉ lệ xây dựng hạm đội ít ỏi và ngân sách bảo trì eo hẹp hơn, Hải quân Mỹ lâu nay buộc phải chấp nhận một hạm đội già cỗi mà một số người cho rằng không đủ sức đáp ứng những thách thức của nó.
Dù vậy, chính quyền Obama xưa nay vẫn tích cực thực hành đường lối ngoại giao tàu chiến, thuật ngữ chỉ việc đạt được các mục tiêu ngoại giao bằng cách phô trương rầm rộ sức mạnh hải quân. Hồi mùa thu năm ngoái, tổng thống Obama cử hàng không mẫu hạm George Washington đến Hoàng Hải để tập trận chung với Hàn Quốc, để nhắn nhủ một thông điệp đến Bắc Triều Tiên và nước ủng hộ chính của họ là Trung Quốc. Nước cờ này gợi nhớ quyết định của chính quyền Clinton hồi năm 1996 cử Hạm đội 7 đến cảnh báo Trung Quốc không được tấn công Đài Loan.
Mỹ đã sử dụng ngoại giao tàu chiến ở Châu Á ít nhất là từ năm 1853, khi Thiếu tướng hải quân Matthew C. Perry đưa hạm đội của mình vào Vịnh Tokyo, khiến Nhật lo sợ nên phải mở cửa cho ngoại thương. Nhưng ngày nay, người Trung Quốc đang hình thành một phiên bản Châu Á của Học thuyết Monroe2 nhằm thúc đẩy những tham vọng thiên triều của họ.
Đối với tổng thống Obama, với gốc gác ở Hawaii và Indonesia giúp ông thấm nhuần thế giới quan Thái Bình Dương, việc rút quân ở Iraq và Afghanistan giúp cho ông có lý do chuyển hướng nhìn sang phía đông. Mỹ đã nỗ lực củng cố quan hệ với những đồng minh cũ ở Châu Á, như Nhật và Hàn Quốc, cũng như những người khổng lồ mới như Ấn Độ. Tuy các quan chức chính quyền không muốn nói công khai, mục tiêu là tập hợp một liên minh làm đối trọng với sức mạnh đang tăng của Trung Quốc.
Trong một chuyến công du Châu Á gần đây, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon E. Panetta cam kết không rút lui khỏi khu vực này. Ông nói: “Thậm chí có lẽ ngược lại, chúng tôi sẽ tăng sự hiện diện của mình ở Thái Bình Dương”. Tuần này, tổng thống Obama dự kiến sẽ công bố một hiệp định với Úc về sự hiện diện quân sự thường trực của Mỹ ở đó.
Trên đất liền, hẳn nhiên cuộc chạy đua giành các nguồn cung năng lượng cũng không phải là mới. Từ thập niên 1950 đến 1970, Mỹ khéo léo giữ cho Nga đứng ngoài nước Iran nhiều dầu. Hiện nay, Trung Quốc bận rộn ký kết các thương vụ ở Châu Phi giàu năng lượng. Nhưng kỹ thuật đã thay đổi thế cân bằng, đưa các mỏ dầu và khí đốt dưới biển vào cuộc cờ mà trước nay chưa từng có.
James B. Steinberg, nguyên thứ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ với kinh nghiệm ở cả ba khu vực này, nói: “Suy cho cùng đó là câu hỏi những cuộc xung đột này sẽ diễn ra khi nào và như thế nào. Liệu những nước này sẽ xem đây là những cơ hội mọi bên cùng có lợi, hay xem đây là những cuộc cạnh tranh có kẻ thắng người thua?”
Đối với Trung Quốc, Biển Đông từ lâu đã có ý nghĩa quan trọng vì là một tuyến đường cung cấp dầu và các nguyên liệu khác để thúc đẩy nền kinh tế. Những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc có những nguồn gốc lịch sử sâu xa, có từ thập niên 1940, khi Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch vẽ đường lưỡi bò kéo dài xuống phía nam của Trung Quốc, ôm gọn phần lớn vùng biển này và hai quần đảo bị tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa.
Các tranh cãi về những khối đá núi lửa này chẳng ý nghĩa gì, chỉ trừ một điều là Trung Quốc, Việt Nam và Philippines đang đụng độ nhau trong cuộc đua giành dầu. Hồi mùa xuân vừa rồi, trong hai biến cố riêng biệt, Việt Nam tố cáo các tàu Trung Quốc cố tình cắt cáp khảo sát địa chấn của một tàu thăm dò dầu. Một cựu quan chức Mỹ cho rằng một kịch bản ác mộng sẽ là tàu chiến Trung Quốc bắn vào một tàu khoan dầu Exxon.
Nếu Biển Đông đang âm ỉ, thì vùng phía đông Địa Trung Hải đang sôi sục. Ở đó, những tuyên bố chủ quyền đối với các trữ lượng khổng lồ khí đốt ngoài khơi Síp và Lebanon đã gây ra căng thẳng với Thổ Nhĩ Kỳ, hiện đang chiếm đóng một nửa nước Síp, cũng như với Israel. Síp và Israel đang khoan lấy khí đốt, khiến Thổ Nhĩ Kỳ giận dữ. Tổ chức du kích Hồi giáo Hezbollah ở Lebanon đã đe dọa tấn công các giàn khoan khí đốt của Israel.
Càng làm phức tạp thêm tình hình này là sự bất đồng gay gắt giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Israel sau khi đặc nhiệm Israel đánh chặn gây chết người một tàu Thổ Nhĩ Kỳ đang cố gắng chở hàng cứu trợ cho người Palestine ở Gaza hồi năm ngoái.
Charles K. Ebinger, nghiên cứu viên cao cấp thuộc Viện Brookings, nói: “Người Thổ Nhĩ Kỳ nói, ‘Người Israeli đã sỉ nhục chúng tôi; chúng tôi có thể làm gì để đáp trả?’ Một phần của vấn đề này chỉ là sự quyết đoán ngày càng tăng của chính sách đối ngoại của Thổ Nhĩ Kỳ ở khắp nơi”
Có lẽ đấu trường cạnh tranh ít nguy hiểm nhất nằm ở phương bắc băng giá, một phần bởi vì các chuyên gia tin rằng nhiều mỏ trong số những mỏ khoáng sản của Bắc Cực nằm trong phạm vi một trong những khu đặc quyền kinh tế 200 dặm của những quốc gia bao quanh đại dương đó. Nhưng ngay cả những nước không có bờ biển quanh Bắc Cực, như Trung Quốc và Hàn Quốc, cũng đang cử những tàu phá băng đến vùng đó để thăm dò những mẫu hình thời tiết và sự di trú của cá.
Oái ăm thay, phần tranh chấp lớn nhất là giữa hai đồng minh trung thành Mỹ và Canada. Băng đang tan dần đã mở ra Hành lang Tây Bắc nổi tiếng, chạy qua một khu quần đảo ở phía bắc Canada. Mỹ xem hành lang này là một tuyến đường thủy quốc tế, cho phép tàu bè Mỹ đi lại không hạn chế. Chính phủ Canada nhất quyết cho rằng đó là tuyến đường thủy sâu trong đất liền, nghĩa là tàu nước ngoài chỉ có thể sử dụng tuyến đường đó nếu được Ottawa chấp thuận.
Hẳn nhiên khó có khả năng Canada và Mỹ gây chiến với nhau, mặc dù sự giằng co có thể khiến các luật sư về biển bận rộn nhiều năm. Các quan chức cảnh báo rằng khi nhiệt độ tăng lên, tiếp theo sẽ là cái đầu nóng. Ông Steinberg nói: “Đó là một tranh chấp pháp lý nghiêm trọng. Khi băng tan hết, thì sẽ nảy sinh một số vấn đề thực sự.”
Mark Landler là phóng viên Nhà Trắng của báo The New York Times.
1 Nguyên văn: Great Game, dùng để chỉ cuộc đua tranh và xung đột chiến lược giữa Đế chế Anh và Đế chế Nga giành quyến thống lĩnh Trung Á trong thế kỷ 19. (N.D.)
2 Học thuyết Monroe (Monroe Doctrine) được Ngoại trưởng Mỹ John Quincy Adams chấp bút, và được Tổng thống Mỹ James Monroe công bố ngày 2/12/1823, trở thành nền tảng của chính sách đối ngoại ỹ trong thời gian dài. Theo học thuyết này, những nỗ lực của các nước Châu Âu nhằm thuộc địa hóa đất đai hay quấy nhiễu các nhà nước ở Bắc Mỹ và Nam Mỹ sẽ bị xem là hành động xâm lược, đòi hỏi Mỹ phải can thiệp. (N.D.)
Bản tiếng Anh: A New Era of Gunboat Diplomacy, The New York Times, 12/11/2011
Bản tiếng Việt: PVLH, Blog lên đông xuống đoài, http://phamvuluaha.wordpress.com/2011/11/14/gunboat-diplomacy/
Xem thêm trên blog này: Biển Đông là tương lai của xung đột
1 thought on “Kỷ nguyên mới của ngoại giao tàu chiến”