
Lý Quang Diệu, nhà lập quốc và thủ tướng đầu tiên của Singapore, qua đời lúc sáng sớm ngày 23/3/2015, thọ 91 tuổi. Ông biến Singapore thành mẫu mực của phát triển; nhưng các nhà độc tài hiểu sai bài học từ thành công của ông.

Nếu muốn tìm tượng đài tôn vinh ông, ta cứ nhìn quanh Singapore. Thịnh vượng, trật tự, sạch sẽ, hiệu quả và được cai trị bởi một chính quyền trung thực, đó không phải là thành quả của chỉ riêng Lý Quang Diệu. Nhưng ngay cả những người chỉ trích ông kịch liệt nhất cũng sẽ đồng ý rằng Lý Quang Diệu đóng một vai trò lớn lao. Lãnh đạo Singapore từ trước thời “tự trị” thoát khỏi Anh Quốc vào năm 1959, ông làm thủ tướng cho tới năm 1990, và về hưu thành nhiều giai đoạn, chỉ mới rời nội các vào năm 2011, và vẫn còn là dân biểu cho tới khi qua đời. Dưới thời ông, Singapore, không có tài nguyên thiên nhiên, đã trở thành một trong những nước giàu nhất thế giới. Nhiều người ngưỡng mộ xem quốc gia này là tấm gương điển hình, và Lý Quang Diệu là một nhà hiền triết. Quả thực ông có nhiều bài học dành cho thế giới; nhưng một số người, nhất là ở Trung Quốc, hiểu sai bài học: rằng chế độ độc tài có công hiệu.
Một phần của ảnh hưởng của Lý Quang Diệu xuất phát từ vai trò của ông là một nhà chiến lược địa chính trị tinh tường, thẳng thừng. Ông là người quan sát sắc sảo về cuộc đua tranh đặc trưng của thời đại chúng ta – sự trỗi dậy của Trung Quốc và cách Mỹ phản ứng trước điều đó. Ông cũng là người phiên dịch được kính nể giữa Mỹ và Trung Quốc, và là một tiếng nói quan trọng, có được quyền tiếp cận độc nhất vô nhị với cả hai quốc gia này, kêu gọi Mỹ tiếp tục can dự ở Châu Á và kêu gọi Trung Quốc chấp nhận điều đó.
Tuy nhiên, thanh thế quốc tế của ông xuất phát từ các thành tựu của ông tại nội địa. Ông đã làm đúng nhiều điều, nhất là cách chọn giới quản lý kinh tế. Ông giữ chính quyền ở quy mô nhỏ, mở cửa nền kinh tế, làm cho luật lệ đơn giản, minh bạch và hữu hiệu. Singapore thường dẫn đầu các bảng xếp hạng “mức độ dễ kinh doanh” của Ngân hàng Thế giới. Đảo quốc này khéo léo khai thác các ưu thế đã khiến nó là một thương cảng thành công từ thế kỷ 14: một cảng tự nhiên thuận tiện và vị trí chiến lược trên Eo biển Malacca, với khoảng 40% lượng giao thương đường biển trên thế giới hiện nay thông qua cảng này. Đầu tư nước ngoài dồn dập đổ vào.
Bình Nhưỡng với băng thông Internet
Ổn định chính trị và trật tự xã hội là một phần sức hấp dẫn của Singapore. Với người Hoa chiếm đa số nhưng cũng có các cộng đồng thiểu số Mã Lai và Ấn Độ đáng kể, Singapore đã có những cuộc bạo động sắc tộc trong thập niên 1960. Kể từ đó sự hài hòa giữa các sắc dân đã được gìn giữ: bằng các hạn ngạch về nhà xã hội để buộc phải hội nhập; bằng các hạn chế nghiêm ngặt về việc nói xấu kích động; và bằng các hình phạt nặng nề cho người vi phạm pháp luật (trong đó có nhục hình và tử hình). Các chính sách bảo thủ song hành với sự kiểm soát xã hội chặt chẽ. Đình công và các hình thức biểu tình khác là chuyện vô cùng hiếm hoi. Các chính sách xã hội không có tính tự do – ví dụ, các hành động đồng tính vẫn còn phi pháp.
Từ trước tới nay, Đảng Hành động Nhân dân (PAP) của Lý Quang Diệu đã nắm chặt quyền lực. Hệ thống chính trị dựa trên mô hình Westminster thừa hưởng từ Anh Quốc, nhưng được điều chỉnh một cách tinh vi để ngăn chặn sự trỗi dậy của một đảng đối lập nghiêm túc. Báo chí chủ lưu bị thuần phục. Các ranh giới khu vực bầu cử bị thao túng, và việc áp dụng các khu vực bầu cử tập thể, bề ngoài là để các nhóm thiểu số có đại diện trong nghị viện, là một rào cản khác cho các đảng đối lập nhỏ. Nó cũng làm trầm trọng hơn các lệch lạc trong hệ thống bầu cử “được ăn cả”. Trong cuộc tổng tuyển cử gần đây nhất vào năm 2011, đảng PAP giành được 60% số phiếu, nhưng tới 93% số ghế. Lý Quang Diệu và các lãnh đạo khác thường dùng các vụ kiện tội phỉ báng để bảo vệ uy tín của mình. Nhiều lãnh tụ đối lập đã phá sản.
Giới chỉ trích mỉa mai Singapore giống như Bắc Hàn hoặc như “Disneyland với án tử hình”, như William Gibson mô tả vào năm 1993. Tuy nhiên, giới ủng hộ Lý Quang Diệu cho rằng những hạn chế đó là cái giá rẻ phải trả cho sự ổn định và thịnh vượng. Số liệu GDP không nói dối: các chính sách của Lý Quang Diệu đã có công hiệu. Singapore là một thị quốc phát đạt. Khác với Bắc Hàn hay Disneyland, đảo quốc này đưa ra một lời phản biện thực sự cho quan niệm theo chủ trương tự do cho rằng tăng trưởng, thịnh vượng và tự do nên và thực sự đi cùng với nhau.
Đặc biệt, giới lãnh đạo Trung Quốc rất thích thú kiểu cai trị độc đảng của Singapore. Họ thấy nhiều khiếm khuyết trong “dân chủ phương Tây”: tính ngắn hạn, không đếm xỉa tới những người không được bỏ phiếu như trẻ em và người nước ngoài; và thói quen lật đổ các lãnh đạo thiếu năng lực. “Sự trọng nhân tài” của Lý Quang Diệu hứa hẹn cung cấp một giải pháp.
Nhưng các nét đặc thù của Singapore khiến nước này là một trường hợp khác thường. Thứ nhất là quy mô. Đó là một thành phố có chính sách đối ngoại, nghĩa là nó có một sự gắn kết mà các quốc gia rộng lớn, đa dạng không thể sánh nổi. Thứ hai, sự gắn kết này được củng cố bởi những hoàn cảnh hỗn loạn lúc lập quốc. Sau sự chia tay đau đớn với Malaysia năm 1965, chính quyền chưa bao giờ để người dân Singapore quên rằng một hòn đảo với đa số là người Hoa, bị bao quanh bởi Indonesia và Malaysia với đa số theo Hồi giáo, sẽ luôn ở thế bấp bênh. Thứ ba là địa lý. Singapore đã phát đạt một phần vì những thất bại của những nơi khác trong khu vực.
Câu chuyện Singapore
Nhan đề của tập một cuốn hồi ký của Lý Quang Diệu chẳng có gì đao to búa lớn: “Câu chuyện Singapore”. Hiếm có lãnh tụ nào là hiện thân của đất nước, có tầm ảnh hưởng đối với quốc gia mình như ông: có chăng là Fidel Castro, và Kim Nhật Thành vào thời của họ. Nhưng cả hai người rõ ràng đều không sánh được với Lý Quang Diệu về thành tựu đưa Singapore “Từ Thế giới Thứ ba lên Thế giới Thứ nhất” (như nhan đề của tập hai). Hơn nữa, ông đạt được thành quả đó trong hoàn cảnh bất lợi hơn nhiều: không có không gian, ngoài một hòn đảo đất chật người đông; không tài nguyên thiên nhiên; và do là một hòn đảo toàn dân nhập cư nói những thứ tiếng khác nhau nên chẳng có mấy lịch sử chung với nhau. Cuộc tìm kiếm một di sản chung có thể đã là lý do khiến Singapore của Lý Quang Diệu trong thập niên 1990 cổ xúy “các giá trị Châu Á”. Khi đó, Singapore là xứ Tây hóa nhất Châu Á.
Bản thân Lý Quang Diệu, được ông nội thân Anh thêm “Harry” vào cái tên tiếng Hoa của ông, từng được ngoại trưởng Anh Quốc George Brown gọi là “người Anh số dách nhất ở phía đông Suez”. Ông hãnh diện về thành công của mình ở xã hội thực dân. Ông là sinh viên xuất sắc ở Singapore thời trước Đệ nhị Thế chiến, và, sau thời gian gián đoạn trong thời kỳ Nhật chiếm đóng Singapore từ năm 1942 tới 1945, đi học lại tại Trường Kinh tế London (LSE) và Cambridge. Ông và vợ ông, Kha Ngọc Chi, đều đậu hạng nhất về luật.
Khi Kha Ngọc Chi xuất hiện lần đầu trong cuốn “Câu chuyện Singapore”, đó là câu chuyện động trời về một sinh viên đánh bại chàng trai Harry trong các kỳ thi môn kinh tế học và Anh ngữ. Lý Quang Diệu luôn giỏi về cả chiêu dụ lẫn ép buộc. Khi trở về Singapore vào năm 1950, ông tự tin khi biết rằng bà “có thể là người kiếm cơm duy nhất và nuôi nấng con cái”, giúp ông có “hợp đồng bảo hiểm” để ông rảng rang bước vào chính trường. Ông vẫn một lòng vì bà. Trước khi bà qua đời, khi bà nằm liệt giường và bị câm trong hai năm, ông giữ một danh sách liệt kê những cuốn sách ông đọc cho bà nghe: Lewis Carroll, Jane Austen, những bài thơ sonnet của Shakespeare.
Trong đời hoạt động chính trị của mình, ông hiếm khi bộc lộ sự dịu dàng nội tâm như vậy. Chịu ảnh hưởng của Harold Laski, người ông gặp tại LSE, ông tham gia phong trào chống thực dân trong thập niên 1950, và ở Anh đã đi vận động tranh cử cho Đảng Lao động. Nhưng với ông, ý thức hệ luôn chiếm vị trí thứ yếu, đứng sau sự cảm nhận đầy thực dụng về cách vận hành của quyền lực. Về cuối đời, ông thường chỉ trích nhà nước phúc lợi là cội rễ của nỗi bất hạnh của Anh Quốc. Ông cũng khoe khoang về khả năng ẩu đả của mình: “Chẳng ai nghi ngờ chuyện nếu anh tấn công tôi, tôi sẽ mang nắm đấm thép và dồn anh vào ngõ cụt.” Ông là một người vận hành nhẫn tâm, xoay xở để mình chiếm lĩnh vị trí đứng đầu đảng PAP để trở thành thủ tướng đầu tiên của Singapore khi hòn đảo này được tự trị vào năm 1959. Ông tại vị trong 31 năm.

Chỉ có một lần trong thời gian đó, cái mặt nạ sắt thép đó tuột ra. Sau khi dẫn dắt Singapore gia nhập một liên bang với Malaysia năm 1963, Lý Quang Diệu lại dẫn dắt đảo quốc này thoát ra khi bị khai trừ vào tháng 8/1965. Lúc đó thủ tướng Malaysia cáo buộc ông lãnh đạo một chính quyền bang “không thể hiện chút trung thành nào đối với chính quyền trung ương”. Về phần mình, ông đã đi tới chỗ tin rằng Singapore với đa số dân là người Hoa sẽ luôn bị thất thế trong một chính thể do người Mã Lai thống lĩnh. Thế nhưng, như ông đã thừa nhận, ông đã tin tưởng và phấn đấu vì sự sáp nhập đó suốt đời ông. Lúc tuyên bố sự giải thể của liên bang, ông đã khóc. Có lẽ, ngoài việc nuối tiếc cho nỗ lực phí hoài và các hy vọng tiêu tan, ông đã tiên liệu được rằng, khi Singapore bị tước mất vùng nội địa tự nhiên của mình, ông sẽ không bao giờ có được một sân khấu chính trị có tầm cỡ xứng với tài năng của ông.
Để bù đắp, ông biến Singapore thành một gương thành công kinh tế được ngưỡng mộ. Như ông và chính quyền của ông thường nhận định, kết quả này dường như là điều không tưởng vào thời kỳ đen tối trong thập niên 1960. Một trong nhiều tài nguyên mà Singapore thiếu thốn là nước sinh hoạt, khiến đảo quốc hết sức lệ thuộc vào đường ống từ bán đảo Malaysia mà Singapore mới chia tay. Về quốc phòng, Singapore phải dựa dẫm thiện chí của Mỹ và sức mạnh đang suy yếu dần của cường quốc thực dân trước đây đô hộ mình, Anh Quốc. Người khổng lồ trong khu vực, Indonesia, đã áp dụng chính sách Konfrontasi – chủ trương thù địch với liên bang Malaysia đến nỗi chỉ còn thiếu mỗi chuyện nổ súng bắn nhau – để bày tỏ quan điểm cho rằng chỉ có sự tình cờ của lịch sử thuộc địa mới khiến Malaya thuộc Anh và các phân nhánh của nó mới tách ra khỏi vùng Đông Ấn thuộc Hà Lan, nơi về sau trở thành Indonesia.
Singapore như một quốc gia đã không tồn tại. “Làm sao chúng tôi có thể tạo nên một quốc gia từ một tập hợp đa ngôn ngữ gồm những người nhập cư từ Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia, Indonesia và nhiều nơi khác của Châu Á?”. Lý Quang Diệu đã đặt câu hỏi như vậy khi hồi tưởng. Các cuộc bạo động sắc tộc trong thập niên 1960 ở chính Singapore cũng như ở Malaysia đã thay đổi tư duy của Lý Quang Diệu trong phần còn lại của cuộc đời ông. Ngay cả khi Singapore trong mắt của người bên ngoài dường như là một xứ thanh bình, hài hòa, và quả thực ổn định đến tẻ nhạt, chính quyền nước này thường phải cư xử như thể đang nhún nhảy trên bờ vực của nỗi hận thù giữa các sắc dân. Nhà xã hội, một trong những thành công lớn nhất của chính quyền, vẫn phải theo hệ thống chia hạn ngạch theo sắc dân, để các sắc dân thiểu số Mã Lai và Ấn Độ không túm tụm lại thành các khu ổ chuột nghèo nàn.
Một chấm nhỏ trên bản đồ
Nhận thức đó về nhược điểm đối ngoại và tình trạng mỏng manh đối nội đóng vai trò trọng tâm trong các chính sách của Lý Quang Diệu cho quốc gia non trẻ này. Bị Anh Quốc từ bỏ vào năm 1971 khi Anh rút khỏi “phía đông Suez”, Singapore luôn xem quốc phòng là ưu tiên hàng đầu, dù những mối đe dọa trực tiếp đối với an ninh của nước này đã giảm bớt. Quan hệ với Malaysia thường căng thẳng nhưng chưa bao giờ tới mức dường như có thể bùng nổ xung đột quân sự. Và Indonesia đã chấm dứt chính sách Konfrontasi vào giữa thập niên 1960. Việc thành lập Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vào năm 1967, mà Lý Quang Diệu là một trong những nhà sáng lập, đã giúp khu vực này gắn bó với nhau. Nhưng nam giới Singapore vẫn phải phục vụ quốc gia gần hai năm trong các lực lượng vũ trang. Chi tiêu quốc phòng, ở một nước có 5,5 triệu dân, cao hơn ở Indonesia, với gần 250 triệu dân; vào năm 2014 chi tiêu quốc phòng ngốn hơn một phần năm ngân sách quốc gia.
Đối với Lý Quang Diệu, thế yếu của Singapore cũng biện minh cho việc tước bỏ phần nào các quyền tự do dân chủ của người dân. Trong thời kỳ đầu, việc này có dùng tới những phương pháp đàn áp cứng rắn – ví dụ bắt giam những người bị nghi là cộng sản. Nhưng điều này trở nên tinh vi, khó thấy hơn: sự kết hợp của thành công kinh tế, thao túng cách phân chia khu vực bầu cử sao cho có lợi, các biện pháp kiểm soát báo chí gắt gao và kiện tụng các chính khách đối lập và giới chỉ trích, trong đó có báo chí nước ngoài, tới thân bại danh liệt. Từ trước tới nay Singapore đã có các cuộc bầu cử thường xuyên, tự do và công bằng. Thực vậy, đi bầu là chuyện bắt buộc, dù vào năm 1994 Lý Quang Diệu nói rằng ông “không tin rằng kiểu bầu cử một người một phiếu là tốt nhất”. Ông nói rằng Singapore áp dụng hệ thống này vì đó là cái người Anh để lại. Vì vậy ông thiết kế một hệ thống trong đó các cuộc bầu cử trong sạch được tổ chức nhưng gần như khó có chuyện đảng PAP mất quyền lực. Lý do lớn nhất của điều đó là thành công kinh tế: tỉ lệ tăng trưởng đạt trung bình gần 7%/năm trong bốn thập niên.
Nhưng đảng của Lý Quang Diệu không để mặc cho con tạo xoay vần. Báo chí truyền thống thành vô dụng; các chính khách đối lập bị đẩy tới chỗ phá sản vì cách áp dụng quyết liệt các luật phỉ báng thừa hưởng từ Anh; cử tri đối mặt với mối đe dọa rằng, nếu họ bầu các ứng cử viên đối lập, khu vực bầu cử của họ sẽ thiệt thòi trong việc phân bổ công quỹ; các ranh giới khu vực bầu cử bị chính quyền thao túng. Theo những người ủng hộ, ưu điểm của hệ thống của Lý Quang Diệu là nó cho phép cạnh tranh bầu cử vừa đủ để chính quyền trung thực, nhưng không cạnh tranh quá nhiều khiến chính quyền thực sự có nguy cơ mất quyền lực. Vì thế chính quyền có thể đề phòng bất trắc thay mặt cho người dân, hoạch định cho dài hạn và cưỡng lại ước muốn nuông chiều các áp lực dân túy.
Lý Quang Diệu là người hết sức tin chuyện trọng nhân tài. Như ông nói thẳng thừng vào năm 1987, “chúng tôi quyết định điều gì đúng. Mặc kệ người dân nghĩ gì.” Các bộ trưởng trong chính quyền của ông được trả lương thuộc hàng cao nhất thế giới, để thu hút nhân tài từ khu vực tư nhân và ngăn chặn tham nhũng. Tham nhũng đúng là chuyện hiếm ở Singapore. Giống như các tội khác, nó được ngăn chặn một phần bằng các hình phạt nặng nề từ đánh gậy tàn nhẫn cho tội phá hoại nơi công cộng tới treo cổ cho tội sát nhân hay buôn lậu ma túy. Như Lý Quang Diệu cũng từng nói: “Giữa được yêu mến và bị nể sợ, tôi luôn tin rằng Machiavelli luôn đúng. Nếu chẳng ai sợ tôi, tôi thành vô nghĩa.” Tuy nhiên, là một nhà nước cảnh sát, Singapore thành công đến nỗi ta hiếm khi thấy bóng dáng một cảnh sát.
Người giữ nhiệt độ máy lạnh
Về một số phương diện, Lý Quang Diệu có phần hơi lập dị. Trong số những danh nhân thế kỷ 20 được tờ The Wall Street Journal vào năm 1999 yêu cầu chọn phát minh có ảnh hưởng nhất của thiên niên kỷ, chỉ mình ông phớt lờ máy in, điện, động cơ đốt trong và Internet, mà lại chọn máy lạnh. Ông giải thích rằng trước khi có máy lạnh, người sống ở xứ nhiệt đới bị bất lợi vì cái nóng và độ ẩm gây tác hại cho chất lượng công việc của họ.
Giờ đây, họ “không nhất thiết bị tụt hậu nữa”. Ký giả và học giả Cherian George phát hiện trong ý này có một ẩn dụ cho phong cách trị quốc của Lý Quang Diệu, và viết một trong những cuốn sách hay nhất về vấn đề này: “Quốc gia máy lạnh: Các tiểu luận về nền chính trị của sự an nhàn và sự kiểm soát”. Lý Quang Diệu biến Singapore thành nơi an nhàn, nhưng cẩn trọng đến mức kiểm soát nhiệt kế. Người Singapore thấy hòn đảo của mình đã tự chuyển biến và hiện đại hóa nên dường như chấp nhận điều này. Nhưng vào năm 2011, đảng PAP đạt kết quả tệ nhất trong lịch sử trong một kỳ tổng tuyển. Nhiều người nghĩ rằng sẽ phải có thay đổi, và cấu trúc mà Lý Quang Diệu đã dựng nên không phù hợp với thời đại Facebook và sự bùng nổ các mạng lưới mà cấu trúc đó không còn kiểm soát được. Họ bắt đầu bất bình với những hạn chế đối với cuộc sống của mình, dường như không còn tin vào tình trạng mỏng manh của Singapore, và bớt lo sợ về các hậu quả khi chỉ trích chính quyền.
Nỗi bất bình lớn nhất là nhiều người, dù có một kế hoạch tiết kiệm bắt buộc được tán dương nhiều, không có đủ tiền cho lúc về hưu. Và họ đổ lỗi cho số dân nhập cư nhiều khiến lương giảm và chi phí sinh hoạt tăng. Đây là một hậu quả của một thất bại đặc thù trong nhiều chiến dịch của Lý Quang Diệu để khiến người Singapore thay đổi. Ông thành công trong việc tạo nên một quốc gia gồm những người nói tiếng quan thoại trở nên lịch sự hơn trước kia, không đi bộ vượt đèn đỏ và không nhai kẹo cao su; nhưng ông không thể khiến họ sinh nhiều con hơn. Vào đầu thập niên 1980, ông bỏ chính sách “ngừng ở hai con”, và bắt đầu khuyến khích giới có học vấn cao có gia đình đông con hơn. Nhưng, ba thập niên sau, phụ nữ Singapore có tỉ lệ sinh sản thuộc hàng thấp nhất thế giới.
Nguyên tắc di truyền
“Bước thụt lùi” trong kỳ bầu cử năm 2011 đưa Lý Quang Diệu vào giai đoạn cuối cùng của thời kỳ về hưu. Năm 1990 ông đã từ thủ tướng chuyển thành “bộ trưởng cao cấp”, và năm 2004 thành “cố vấn bộ trưởng”. Bấy giờ ông đã rời nội các, nhưng vẫn còn trong nghị viện. Lúc đó thủ tướng Singapore đã được 7 năm chính là Lý Hiển Long, con trai ông. Nhà họ Lý sẽ kiện bất cứ ai ám chỉ có gia đình trị. Và, đối với Lý Quang Diệu, chuyện tài năng có di truyền là điều hiển nhiên. “Thỉnh thoảng hai ngựa xám có thể sinh ra một con ngựa bạch, nhưng rất hiếm. Nếu có hai ngựa bạch, rất dễ có cơ may sinh ra những con ngựa bạch.”
Những ý tưởng như vậy, nếu áp dụng vào chuyện sắc tộc, dễ lái sang chiều hướng phân biệt chủng tộc. Biết bao vị khách quý phương Tây lũ lượt tới gặp ông ở Singapore đều tránh xa các mảng nhạy cảm như vậy. Họ thích tìm hiểu các quan điểm của ông về sự hưng thịnh của Trung Quốc hoặc sự suy vong của Mỹ. Họ cũng ngưỡng mộ cảnh an nhàn và thành công kinh tế của Singapore do Lý Quang Diệu dựng nên, và nhờ ông tư vấn cách sao chép câu chuyện Singapore. Trong khi đó, sự kiểm soát và “trật tự xã hội” tuyệt hảo ở đó cũng được nhiều người ngưỡng mộ, trong đó có giới lãnh đạo Trung Quốc, nhất là Đặng Tiểu Bình; cũng như Lý Quang Diệu, Đặng Tiểu Bình thuộc sắc tộc thiểu số Khách Gia (người Hẹ). Do vậy, dù nổi tiếng vừa là người thanh trừng cộng sản tại nội địa vừa là người chỉ trích sự suy đồi phương Tây và lý tưởng vô vị của nó, Lý Quang Diệu ung dung đắc thắng trong vai trò một nhà tư tưởng địa chính trị. Hẳn ông đã tự hỏi, nếu số phận trao cho ông một siêu cường quốc thay vì một thị quốc thì đã ra sao?
Khương An
Tổng hợp từ The wise man of the East và Lee Kuan Yew, The Economist, 22/3/2015.
(Bài tổng hợp, ký tên Khương An, đã đăng trên Thời Mới Canada, ngày 25/3/2015.)
Bản tiếng Việt © 2015 Phạm Vũ Lửa Hạ