Nhìn lại NAFTA sau 20 năm

Ngày 1/1/1994, Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) bắt đầu có hiệu lực giữa Canada, Mỹ và Mexico, mở ra một kỷ nguyên mới về hợp tác kinh tế. Đến nay đây vẫn là hiệp định thương mại tự do lớn nhất của Canada. Kỷ niệm 20 năm hiệp định NAFTA, Tạp chí Kinh doanh Canada số tháng 1/2014 có bài viết dựa trên cuộc phỏng vấn độc quyền với ông Brian Mulroney, cựu Thủ tướng Canada.

Cựu thủ tướng Canada Brian Mulroney hồi tưởng và đánh giá NAFTA sau 20 năm

Angus Gillespie

Phạm Vũ Lửa Hạ lược dịch

Hiệp định NAFTA chính thức có hiệu lực cách đây 20 năm, nhưng trước khi đạt đến cái đích này ba quốc gia đã phải mất nhiều năm đàm phán. Ở Canada, Kim Campbell đã thay Brian Mulroney làm thủ tướng và lãnh tụ của Đảng Bảo thủ ở liên bang, còn tại Mỹ Bill Clinton đã tuyên thệ nhậm chức sau khi đánh bại George Bush cha trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1992. Đến lúc hiệp định giữa ba nước này chính thức được ban hành, lãnh tụ Đảng Tự do Jean Chrétien đã lên làm thủ tướng sau khi buộc Campbell và Đảng Bảo thủ của bà thất bại thảm hại trong cuộc bầu cử năm 1993. Nhưng hiếm ai phủ nhận rằng kiến trúc sư cho vai trò đi đầu của Canada trong NAFTA chính là Brian Mulroney và chính phủ do ông đứng đầu.

Như đã nói trên, hiệp định thương mại tự do có tính cột mốc này đã được hoạch định nhiều năm với Thủ tướng Mulroney, Tổng thống Mỹ George Herbert Walker Bush và Tổng thống Mexico Carlos Salinas dẫn đầu các đầu nỗ lực đại điện cho quốc gia của mình. Hiệp định này gắn kết một thị trường hội nhập có gần 400 triệu người với lượng hàng hóa và dịch vụ trị giá 6,5 ngàn tỉ Mỹ kim. Hiện nay thị trường chung này có hơn 450 triệu người và sản xuất hàng hóa và dịch vụ trị giá 17 ngàn tỉ Mỹ kim mỗi năm, theo số liệu của chính phủ Mỹ. Tất cả các loại thuế nhập khẩu và hạn ngạch đã được bãi bỏ, đúng kế hoạch, vào ngày 1/1/2008, vào ngày kỷ niệm 14 năm.

Nhân kỷ niệm 20 năm hiệp định quan trọng này, Canadian Business Journal (Tạp chí Kinh doanh Canada) thực hiện một cuộc phỏng vấn độc quyền với cựu thủ tướng Mulroney để nghe nhận định của ông về NAFTA – về chuyện hiệp định đã hình thành ra sao trong thuở ban đầu, những rào cản mà hiệp định gặp phải trong suốt quá trình đó, và cuối cùng là ông đánh giá ra sao về thành công của hiệp định sau hai thập niên. Ông Mulroney sẽ tròn 75 tuổi vào tháng 3, là thành viên cao cấp của hãng luật Norton Rose Fulbright ở Montreal.

1994 đến nay

Kinh tế thế giới đã thay đổi nhiều trong hai thập niên qua. Hiệp định thương mại Canada-Mỹ được đề xuất ban đầu đã gây tranh cãi và chia rẽ rất nhiều, và các đảng tham gia cuộc bầu cử năm 1988 ở Canada chủ yếu tranh cử dựa trên chính vấn đề này, như ông Mulroney kể lại trong cuộc nói chuyện rất lâu của chúng tôi. Đúng như tên gọi, mục tiêu chính của NAFTA là loại bỏ các rào cản thương mại và đầu tư giữa Mỹ, Canada và Mexico.

“Tình hình diễn tiến rất tốt, và thậm chí còn hơn dự kiến của chúng tôi, đặc biệt là giao thương với Mexico,” ông Mulroney bắt đầu. “Thương mại của Canada với Mexico đã tăng hơn 8 lần.”

Số liệu chứng minh nhận xét của ông Mulroney, với thương mại trong năm 1993 ở mức khoảng 4 tỉ đô tăng lên đến hơn 34 tỉ đô tính đến năm 2011; thương mại giữa ba nước đã tăng hơn gấp ba lần. Tổng sản lượng nội địa (GDP) đã tăng qua các năm. GDP thường thường là chỉ số đo lường số công việc được tạo ra, và cũng được vị cựu thủ tướng nhắc đến.

“Ngoài ra, một kết quả không kém phần quan trọng là hơn 4,5 triệu việc làm đã được tạo ra ở Canada kể từ khi có NAFTA,” ông nói tiếp. “Hiệp định này đã làm tròn nhiệm vụ mà chúng tôi đã kỳ vọng ở nó.”

Những người ủng hộ NAFTA tin rằng rốt cuộc sẽ có thêm nhiều việc làm được tạo ra ở Mỹ. Phe phản đối thì nghĩ rằng hiệp định này làm mất đi những công việc có lương cao ở Mỹ. Sự thật là không có câu trả lời dứt khoát nếu tranh luận về những mẫu số liệu nhỏ hay các trường hợp riêng lẻ. Chắc chắn có một số người và doanh nghiệp bị thiệt hại. Trong những năm gần đây, “Điều khoản Mua Hàng Mỹ” trong Đạo luật Hồi phục và Tái đầu tư Mỹ năm 2009 đã gây tranh cãi dữ dội với phía Mỹ muốn áp dụng một mức độ ưu tiên hơn quy định của NAFTA. Tổ chức thương mại Các nhà Sản xuất và Xuất khẩu Canada, với sự ủng hộ của các hãng sản xuất thép Canada, muốn chính phủ liên bang trả đũa các thủ thuật thương mại không công bằng của Mỹ. Điều đó chắc chắn đã gây ra tác động tiêu cực đối với ngành thép Canada. Những tranh chấp khác vẫn tiếp tục đến ngày nay, chẳng hạn như tranh cãi về việc Mỹ áp mức thuế nhập khẩu cao đến 27% đối với sản phẩm gỗ mềm từ Canada. Những biện pháp bảo hộ của Mỹ đã thách thức khái niệm thương mại tự do. Thủ tướng Stephen Harper đạt được một giải pháp thỏa hiệp vào mùa hè năm 2006, nhưng nó vẫn chưa được hai nước phê chuẩn, một phần là do có phản ứng dữ dội ở Canada.

Số lao động ở Mỹ đã tăng trong thời kỳ 1993-2007 từ 110,8 triệu người lên đến 137,6 triệu người. Giai đoạn từ giữa đến cuối thập niên 1990 là thời kỳ tăng trưởng kinh tế mạnh ở Mỹ. Nhưng điều khiến ông Mulroney thất vọng là hiệp định quan trọng này chưa bao giờ trở thành nền tảng hay chất xúc tác cho các hiệp định thương mại ở nội địa hay quốc tế trên một phạm vi rộng hơn.

Ông chân thành thừa nhận: “NAFTA chắc chắn là chất xúc tác cho nhiều hiệp định tương tự ở bán cầu này, ví dụ các hiệp định thương mại riêng lẻ với Chile, Colombia và Panama, vân vân, nhưng tôi phải công nhận rằng thật chẳng may là nó đã không trở thành khuôn mẫu mà tôi đã hy vọng.”

Khu vực thương mại tự do của Bắc Mỹ và Nam Mỹ với 34 quốc gia và GDP tổng cộng 25 ngàn tỉ Mỹ kim, và hơn 1 tỉ người, đã khiến ông Mulroney và nhiều cộng sự lạc quan về những điều lớn hơn và tốt đẹp hơn trên một quy mô tương tự. Thời gian sẽ cho biết các hiệp định thương mại Canada sẽ mở rộng đến chừng nào nữa, trong đó có hiệp định giữa Canada và Liên hiệp Châu Âu.

“Đó là vấn đề tương lai và ý chí chính trị,” ông nhận xét, khi được hỏi về tiềm năng mở rộng. “Với Vòng [Đàm phán] Phát triển Doha bị đình trệ, bất cứ nỗ lực tự do hóa thương mại nào cũng đáng khen, và tôi nghĩ rằng Thủ tướng Harper ở vị thế rất thuận lợi để kêu gọi thành lập khu vực thương mại tự do của Bắc Mỹ và Nam Mỹ, mà sẽ là điều tuyệt vời cho Canada.”

Đàm phán và kết quả

Do phạm vi và mức độ của việc chuẩn bị cho một hiệp định thương mại tam phương có tính lịch sử, mỗi nước đều phải mất nhiều năm hoạch định. NAFTA bắt đầu thực sự chuyển động vào năm 1989 và được hoàn tất năm 1992. Quá trình đàm phán kéo dài ba năm ròng, đầy khó khăn nhưng cuối cùng đạt kết quả mỹ mãn.

“Tôi nhớ tôi đã có mặt ở San Antonio, Texas vào tháng 10/1992 với Tổng thống Bush và Tổng thống Salinas để ký hiệp định, nhưng lúc đó nó vẫn phải được đệ trình để Quốc hội Mỹ phê chuẩn,” ông kể.

Lễ ký tắt NAFTA tại San Antonio, Texas, tháng 10/1992 Từ trái sang phải: (Đứng) Tổng thống Mexico Carlos Salinas de Gortari, Tổng thống Mỹ George H. W. Bush, Thủ tướng Canada Brian Mulroney. (Ngồi) Bộ trưởng Thương mại và Phát triển Công nghiệp Mexico Jaime Serra Puche, Đại diện Thương mại Mỹ Carla Hills, Bộ trưởng Thương mại Quốc tế Canada Michael Wilson.
Lễ ký tắt NAFTA tại San Antonio, Texas, tháng 10/1992
Từ trái sang phải: (Đứng) Tổng thống Mexico Carlos Salinas de Gortari, Tổng thống Mỹ George H. W. Bush, Thủ tướng Canada Brian Mulroney. (Ngồi) Bộ trưởng Thương mại và Phát triển Công nghiệp Mexico Jaime Serra Puche, Đại diện Thương mại Mỹ Carla Hills, Bộ trưởng Thương mại Quốc tế Canada Michael Wilson.

Hạ nghị viện Mỹ phê chuẩn NAFTA vào ngày 17/11/1993 với tỉ lệ phiếu sát sao 234-200. Số hạ nghị sĩ bỏ phiếu thuận có 132 người thuộc Đảng Cộng hòa và 102 người thuộc Đảng Dân chủ. Hiệp định được thông qua ở Thượng nghị viện với tỉ lệ phiếu 61-38. Nhưng thuyết phục được các chính khách ở Canada – ngoài đảng Bảo thủ – không phải là việc dễ. Các hạ nghị sĩ bỏ phiếu theo đường lối của đảng, và mặc dù đảng Tự do và đảng Tân Dân chủ (NDP) bỏ phiếu chống, chính phủ đa số đã có thể thông qua hiệp định này. Dù vậy, đó vẫn là một cuộc đấu tranh căng thẳng.

“Vô cùng khó khăn,” ông Mulroney thẳng thừng kể. “Hiệp định thương mại tự do Canada-Mỹ, vốn là cơ sở của NAFTA, đã bị tranh cãi kịch liệt; bị đảng Tự do và đảng Tân Dân chủ, nhiều nhóm lợi ích, các nghiệp đoàn và nhiều báo đài phản đối. Có nhiều phản ứng hằn học đối với chính phủ và tôi vì đã đưa ra khái niệm này.”

Năm 1988, Đảng Bảo thủ của ông Mulroney đã phải tuyên bố tổ chức tổng tuyển cử và tiến hành một chiến dịch tranh cử hết sức khốc liệt về chủ đề chủ chốt là thương mại tự do để người dân Canada chấp nhận. Hiệp định Canada-Mỹ có hiệu lực vào năm 1989.

“Khi tôi làm NAFTA vài năm sau, ông Chretien của đảng Tự do vận động hủy bỏ nó cùng với thuế GST,” ông Mulroney nói “Rất may là khi ông ta thành thủ tướng, ông đã chứng tỏ độ chín chắn và khả năng lãnh đạo khi bỏ những lời hứa của mình khi tranh cử, và giữ cả NAFTA lẫn GST; bộ trưởng tài chính của ông (và là thủ tướng tương lai Paul Martin) đã công khai thừa nhận rằng điều đó đã giúp xóa thâm hụt ngân sách và giảm nợ ở Canada. Hiệp định này không phải luôn luôn được ưa chuộng, nhưng hiện nay tôi dám đoan chắc rằng nếu có người ra trước công luận và phát biểu ‘Tôi sẽ vận động chống lại thương mại tự do và NAFTA và nếu quý vị bầu tôi, tôi sẽ hủy bỏ nó, người đó chẳng thể ra khỏi vạch xuất phát.”

Bất cứ hiệp định thương mại tự do nào cũng được thực hiện với nhiều mục tiêu, trong đó có tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống. Theo Phòng Thương mại Mỹ, NAFTA góp phần tăng giá trị trao đổi hàng hóa và dịch vụ của Mỹ với Canada và Mexico từ mức 337 tỉ Mỹ kim trong năm 1993 lên đến 1,2 ngàn tỉ Mỹ kim trong năm 2011. Tuy nhiên, ở mặt trái, AFL-CIO (Liên đoàn Lao động và Đại hội các Tổ chức Ngành nghề Mỹ, liên đoàn lớn nhất tập hợp các nghiệp đoàn ở Mỹ) đổ lỗi cho hiệp định này đã khiến 700.000 việc làm trong ngành sản xuất công nghiệp ở Mỹ chuyển sang Mexico trong cùng thời kỳ đó. Nhưng ông Mulroney nói rằng ta cần phân tích số liệu chung để đánh giá chính xác toàn bộ mức độ thành công.

“Tổng mức thương mại NAFTA đã tăng hơn gấp ba lần từ 288 tỉ Mỹ kim 1993 lên đến hơn 1,2 ngàn tỉ Mỹ kim trong năm 2011,” ông khẳng định. “Hàng triệu việc làm đã được tạo ra ở Canada kể từ khi có NAFTA; điều đó cũng đúng với những nước khác và chính số liệu thống kê thể hiện rõ các lợi ích.”

“Tôi cũng có thể nói rằng nhiều người kịch liệt phản đối hiệp định thương mại tự do Canada-Mỹ và NAFTA, nhưng rốt cuộc cũng thành người ủng hộ hiệp định này, nên không thể có lời khen nào hay hơn thế,” ông cười.

Ngành sản xuất công nghiệp Canada là một trong những ngành đáng kể nhất hưởng lợi từ NAFTA, nhưng như ông Mulroney nhận xét, hiệp định này nhìn chung đã lan tỏa ra phạm vi rộng hơn.

Ban đầu có nhiều quan ngại rằng một hiệp định như vậy sẽ bóp chết ngành công nghiệp ở Canada.

“Lợi ích thực sự đối với Canada là nó củng cố hiệp định thương mại tự do ban đầu với Mỹ về một số phương diện, biến việc dàn xếp giải quyết tranh chấp thành điều khoản thường trực, và cũng làm sáng tỏ các quy tắc về định nghĩa xuất xứ của các sản phẩm như ô tô, một phần quan trọng của hoạt động thương mại Bắc Mỹ,” ông Mulroney nhận xét. “Tất cả các ngành công nghiệp đều hưởng lợi và với một số ngành cụ thể, những ngành đã được dọn đường sẵn – ví dụ như rượu vang – đã rất phát đạt.”

Ông Mulroney nêu ví dụ một công ty lâu đời ở Montreal tên là Peerless Clothing, đã hoạt động từ năm 1919 và hiện do Alvin Segal làm chủ; công ty này đã trở thành một trong những hãng may quần áo veston lớn nhất thế giới.

“Dù có nhiều tiên đoán về sự khánh kiệt của ngành may mặc và rượu vang, không có lời tiên đoán ảm đạm nào trở thành hiện thực. Tôi nghĩ rằng các lợi ích đã lan tỏa trên toàn nền kinh tế của chúng ta và hẳn nhiên nó còn có một tác động khác là giúp hiện đại hóa nền kinh tế nước ta và khiến người Canada có tư duy hướng ngoại hơn và tự tin rằng họ có thể giao thương với những đối tác giỏi nhất trên thế giới và thắng lợi.”

Những cuộc chiến ở hậu trường

Dù giữa chính quyền Mulroney và chính quyền Bush có mối quan hệ rất thân tình và liên minh hợp tác chặt chẽ, mối quan hệ này không phải không có những lúc bất đồng và tranh cãi kịch liệt, và quả thực đã gặp một số rào cản lớn cần phải khắc phục ở hậu trường.

“Chúng tôi đã phải đấu tranh để tham gia thảo luận với Mexico,” ông Mulroney nói với giọng có phần bực bội dù đã sau bao nhiêu năm khi nhớ lại phần cụ thể này trong các cuộc đàm phán NAFTA. “Người Mỹ muốn áp dụng thuyết trung tâm và vệ tinh, trong đó họ sẽ có hiệp định thương mại tự do với Canada, rồi họ chuyển sang ký một hiệp định thương mại tự do với Mexico, rồi với các nước khác. Tôi nói không với Tổng thống Bush, khẳng định với ông ta rằng chúng ta sẽ ở trung tâm của mọi thứ. Chúng ta sẽ không thành vệ tinh của bất cứ ai.”

Theo ông Mulroney, nhiều người Canada có thể ngạc nhiên là chúng ta đã phải thực sự đấu tranh quyết liệt để được phần bình đẳng trong thỏa thuận này. Sự thật là người Mỹ không muốn Canada tham gia hiệp định này với tư cách đối tác bình đẳng. Nhưng họ phải đồng ý với điều đó, bằng không, Canada sẽ không tham gia.

Ông Mulroney khẳng định: “Tôi nghĩ – và chính phủ của tôi nghĩ – điều này có ý nghĩa hệ trọng cho sự thịnh vượng trong tương lai của chúng ta.”

“Điều hết sức quan trọng là duy trì đà thăng tiến, nên chúng ta cần tăng khả năng tiếp cận các thị trường để bảo đảm rằng nền kinh tế chúng ta tiếp tục tăng trưởng và tôi nghĩ chính quyền hiện nay [của thủ tướng Harper] đang cố gắng làm điều đó ở hàng chục khu vực trên toàn cầu, và tôi ủng hộ mạnh mẽ các sáng kiến của họ.”

Vậy thương mại tự do trong thế giới phương Tây có thể mở rộng đến chừng nào và có thể ngoài tầm với thực tế của Canada trong thập niên sắp đến trong bối cảnh có vô số rào cản chính trị và kinh tế cần khắc phục?

“Tôi nghĩ nó phụ thuộc vào thành công hay thất bại của nỗ lực giống như cất cánh trở lại sau lần đầu bất thành. Hiện chúng ta đang gắng đạt được các hiệp định song phương có ý nghĩa với các nước như Trung Quốc và Ấn Độ. Nhưng hẳn nhiên các mối quan hệ giao thương lớn hơn như Hợp tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) rất quan trọng và có thể mang lại những lợi ích lớn lao về năng suất và của cải cho quốc gia chúng ta. Tôi là người ủng hộ thương mại tự do,và tôi muốn nói rằng nếu cơ hội xuất hiện chúng ta phải sẵn sàng tận dụng chúng, phải nhanh nhạy, linh hoạt để có những thỏa thuận có lợi cho Canada. Ta không thể mất quá nhiều thời gian; ta phải sẵn sàng để hành động. Nay nhìn lại, chúng ta đã đạt được hiệp định thương mại tự do Canada-Mỹ đúng lúc. Tôi sẽ chẳng muốn cố gắng làm điều đó trong một môi trường bảo hộ như ngày nay.”

Một quốc gia thương mại

Trong những năm gần đây, khoảng 80% lượng xuất khẩu hàng hóa của Canada thường sang các nước đối tác NAFTA. Với mức độ toàn cầu hóa gia tăng, tỉ lệ đó rất có thể sẽ giảm trong những năm sắp đến.

“Chúng ta là một quốc gia thương mại,” ông Mulroney nhận xét. “Nước ta thịnh vượng là nhờ chúng ta có khả năng giao thương quốc tế, nên chúng ta không thể ngủ quên trên chiến thắng. Dù đó là CETA (Hiệp định Thương mại Tự do Canada-Châu Âu) or TPP (Hợp tác Xuyên Thái Bình Dương) hay các cuộc đàm phán thương mại riêng lẻ với Nhật, Ấn Độ, hay Trung Quốc, tất cả đều đang đi đúng hướng. Đó là hướng đi duy nhất sẽ bảo đảm và nâng cao sự thịnh vượng của chúng ta. Khó có khả năng một hiệp định trong những thỏa thuận đó sẽ có tác động lớn lao đối với nền kinh tế nước ta như tác động của hiệp định thương mại tự do Canada-Mỹ (và sau đó là NAFTA), vì chúng chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ hơn trong GDP của chúng ta, nhưng tất cả các hiệp định đó gộp lại sẽ cải thiện năng suất của chúng ta, củng cố nền kinh tế và giúp nước ta giàu hơn. Vì vậy, tôi hết sức ủng hộ những gì chính phủ đang làm trong những lĩnh vực này, và tôi nghĩ đó là cách duy nhất giúp con cháu chúng ta giàu hơn, bằng cách tạo điều kiện thuận lợi hơn cho chúng.”

TPP là một sáng kiến do Mỹ đứng đầu, và là một phần quan trọng trong chính sách đối ngoại của Tổng thống Barack Obama nhằm chuyển trục sang Châu Á. TPP đã bị tắc nghẽn trong nhiều vấn đề khác nhau, trong đó có khả năng tiếp cận thị trường cho một số nước, đặc biệt về nông sản, trí tuệ nhân tạo và bảo vệ môi trường.

Ngoài Mỹ và Canada, các nước khác liên quan đến TPP còn có Úc, Brunei, Chile, Nhật, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam.

Một diễn biến gần đây là hiệp định thương mại tự do nới rộng của Canada với Chile, mở rộng ra khỏi lĩnh vực tài nguyên thiên nhiên và nay bao gồm dịch vụ tài chính. ông Mulroney đồng ý rằng có một số cơ hội chắc chắn ở nhiều khu vực trên thế giới để Canada theo đuổi, nhưng có những nơi đáng ưu tiên hơn.

“Tôi nghĩ chúng ta có cơ hội lớn ở Châu Mỹ La tinh,” ông nói. “Tôi thường phát biểu và hy vọng rằng chúng ta sẽ chuyển sang khu vực thương mại tự do của Bắc Mỹ và Nam Mỹ; nếu Canada là dự phần trong những đàm phán kiểu này thì sẽ là một sự mở rộng đáng kể.”

Các vấn đề môi trường

Khi NAFTA có hiệu lực cách đây 20 năm, thành tố môi trường của hiệp định này được xem là cách thức nâng cao các tiêu chuẩn an toàn và bảo vệ cho môi trường và bảo đảm tuân thủ các luật môi trường ở mức độ cao hơn. Hiệp định này cũng nhằm mục đích bảo đảm rằng tiến trình tự do hóa thương mại sẽ song hành với mức độ bảo vệ môi trường cao hơn. Nhưng sau hai thập niên, nhiều người cho rằng thực tế thì ngược lại, trong đó có Hội đồng Người Canada Hành động vì Công lý Xã hội.

Mặc dù một số người và tổ chức cho rằng các mục tiêu và thành quả môi trường của NAFTA chưa thỏa đáng, chúng đã tạo một tiền lệ quan trọng để đưa các biện pháp bảo vệ môi trường vào những hiệp định như vậy từ lúc đó trở đi, mà nhiều giới phản đối kịch liệt sẽ miễn cưỡng thừa nhận.

Ngoài ra, tổ chức phi vụ lợi Ủy ban Hợp tác Môi trường (CEC) được thành lập một phần là để tìm hiểu tác động môi trường của NAFTA. Một mối quan ngại đáng chú ý là công nghiệp Bắc Mỹ sẽ bị thu hút đến những nơi có luật môi trường lỏng lẻo hoặc thực thi pháp luật yếu kém. Phần lớn các nghiên cứu xác định rằng những mức gia tăng ô nhiễm nghiêm trọng nhất do NAFTA là ở ngành kim loại cơ bản, ngành dầu khí Mexico, và ngành thiết bị vận tải ở Mỹ và Mexico, chứ không phải ở Canada. Nhìn chung, nhiều giả thuyết kinh khủng nhất về tác động môi trường của NAFTA chưa bao giờ được chứng minh.

“Tôi chỉ có thể nói rằng việc thiết lập các mối quan hệ thương mại gần gũi hơn với các chính quyền Reagan và Bush ở Mỹ chắc chắn đã góp phần vận động ý chí chính trị ở Washington giúp chúng ta có thể ký kết được một hiệp ước về mưa acid, một mục tiêu mà các chính phủ Canada đã không thực hiện được trong thập niên 1970 và 1980. Hiệp ước Mưa Acid Canada-Mỹ mà tôi đã ký với Tổng thống Bush thực sự đã trở thành khuôn mẫu và mô hình cho hiệp ước Kyoto và nhiều sáng kiến môi trường quan trọng khác trên toàn thế giới, và đã được viện dẫn trong nhiều công trình quan trọng về môi trường. Vì thế tôi nghĩ rằng hợp tác thương mại có thể là một công cụ thiết yếu cho lãnh đạo và hợp tác quốc tế trong nhiều lĩnh vực khác.”

Ảnh hưởng đến những công việc lương cao

Cũng như với bất cứ ước muốn chính trị nào, luôn có một tỉ lệ dân chúng bất đồng. Kết quả tốt nhất có thể đạt được trên thực tế là thuyết phục được một tỉ lệ đa số đơn giản đứng về phía mình. Gần như không thể đạt được cao hơn thế với một môi trường chính trị quá phân hóa. Ông Mulroney nói ông luôn thấy rằng cách tốt nhất để chống lại những người chê bai, phản đối là không được nổi giận, mà nên tích cực vận động quần chúng, đề cao những giá trị của một cương lĩnh và đưa ra một tầm nhìn thay thế cho hiện trạng sẵn có. Suy cho cùng, ước nguyện của người dân sẽ quyết định phương hướng hành động.

“Cách đây hai mươi năm khi chúng ta thực hiện hiệp định thương mại tự do Canada-Mỹ, tôi và chính phủ của mình đã dự đoán niềm tin của chúng tôi; đó là hiệp định thương mại tự do Canada-Mỹ, tiếp theo là NAFTA, sẽ mở ra một kỷ nguyên thịnh vượng và tăng trưởng mà Canada chưa từng thấy trong lịch sử hiện đại, và điều đó đã đúng,” ông Mulroney đáp. “Những người phản đối cho rằng nó sẽ chẳng bao giờ có tác dụng và sẽ khiến chúng ta mất đi bảo hiểm y tế, nguồn nước, các chương trình phát triển khu vực và các biện pháp bảo vệ ngôn ngữ. Ngày nay ta nhìn lại những gì họ nói lúc đó, và đó chỉ nhằm gây lo sợ.”

Khi người Canada chọn giữa nỗi lo sợ về tương lai và niềm tin về tương lai, ông Mulroney nói rằng quốc gia chúng ta chọn niềm tin. Đó cũng là để các thế hệ trẻ hơn biết chúng ta có thể cạnh tranh trên trường quốc tế và giành thắng lợi.

Một bất lợi đáng kể cho Mexico là đối với các doanh nghiệp nhỏ. Họ không còn được bảo hộ bằng thuế nhập khẩu, khiến chủ doanh nghiệp nhỏ không thể cạnh tranh với giá cả của các sản phẩm trợ giá từ Mỹ, khiến nhiều doanh nghiệp phá sản. Kết quả là nhiều người Mexico đã bỏ quê hương sang tìm việc ở Mỹ.

Trước NAFTA, thuế nhập khẩu của Mexico trung bình bằng khoảng 250% so với thuế nhập khẩu của Mỹ. Sau khi có hiệp định, khoảng một nửa số thuế nhập khẩu giữa Mexico và Mỹ được bãi bỏ.

Các lợi ích cho nông nghiệp

Sản xuất công nghiệp được chú ý nhiều khi giới kinh tế học bàn về thành quả việc làm của chúng ta và tác động đối với GDP, nhưng nông nghiệp là ngành cũng hưởng được giá trị lớn lao từ thương mại tự do. ông Mulroney rất hãnh diện khi chứng kiến điều này.

“Đã có nhiều tiên đoán ảm đạm về tương lai của nông nghiệp và các vườn nho ở Canada, cũng như nhiều khía cạnh khác của hoạt động sản xuất nông sản; tất cả các tiên đoán hóa ra đều hoàn toàn sai và vô căn cứ,” ông nói. “Tôi rất hài lòng về các kết quả cho nông nghiệp. Có thể có, nhưng tôi không thể thực sự nêu ra một lĩnh vực nào trong nền kinh tế quốc dân của chúng ta không hưởng lợi từ hiệp định thương mại tự do Canada-Mỹ và/hoặc NAFTA.”

Nhưng ngay cả ông Mulroney cũng thừa nhận rằng cách đây 20 năm có những lúc nảy sinh những nghi ngờ về thành công của NAFTA, nhưng nghi ngờ chỉ là một phần trong đời sống thường nhật của con người.

“Tuy tôi đương nhiên rất tin tưởng vào hiệp định này và ủng hộ nó trong chiến dịch tranh cử 1988, và về sau là NAFTA và nghĩ rằng nó sẽ có tác dụng, chẳng ai có thể biết tuyệt đối chắc chắn về bất cứ chuyện gì. Luôn có ít nhiều nghi ngờ, đặc biệt khi các đối thủ của ta dùng mối nghi ngờ như một món hàng trong vận động tranh cử và cố gắng thuyết phục cử tri chấp nhận một tầm nhìn khác của Canada, mà tôi luôn luôn gọi là ‘tầm nhìn của người Canada bé nhỏ’ hay ‘nước Canada bé nhỏ’. Tôi muốn một nước Canada mở rộng, mạnh mẽ, tự tin và năng động, và tôi đã truyền đạt tầm nhìn đó.”

Giờ đây, sau 20 năm, chẳng ai tranh cãi về việc hiệp định này đã mang lại nhiều lợi ích hơn thiệt hại, ít nhất là về phía Canada. Dĩ nhiên, cách nhìn nhận ra sao tùy thuộc vào cách những điều chịu tác động trực tiếp hay gián tiếp của việc thực hiện hiệp định.

“Tầm nhìn kiểu khác đó đã bị quét vào sọt rác của lịch sử từ lâu,” ông Mulroney nói tiếp. “Tôi rất hài lòng là hiệp định này là một thắng lợi lớn cho Canada và chúng ta đã đứng về phía đúng của lịch sử trong một chương kinh tế quan trọng như vậy. Đó là lời tri ân cho chính phủ của thời đó và những người Canada trong ngành kinh doanh và các lĩnh vực khác đã ủng hộ các sáng kiến của chúng tôi và đã có dũng khí ủng hộ và biện minh cho những sáng kiến này vào những lúc vô cùng khó khăn. Thật mãn nguyện khi thấy mình đúng.”

Vị trí trong lịch sử

Ông Mulroney cũng giữ liên lạc với Bush và Salinas qua nhiều năm, và cho biết luôn thích thú khi được hội ngộ và hồi tưởng về những ngày hơn 20 năm trước khi NAFTA vẫn còn trong giai đoạn chuẩn bị.

“Tôi vẫn thường xuyên gặp George Bush trong 25 năm qua,” ông kể. “Chúng tôi có những kỳ nghỉ cùng nhau nên chúng tôi nhiều lần ôn lại chuyện này. Tổng thống Salinas thì tôi ít gặp hơn, nhưng cũng thỉnh thoảng gặp nhau. Cả ba chúng tôi có hội ngộ một lần ở Washington vào một dịp kỷ niệm NAFTA. Chúng tôi cùng nhau hồi tưởng về nó. Các chính khách thường thích những thành công của mình hơn là các thất bại, và tôi không phải ngoại lệ,” ông nói với tiếng cười sảng khoái.

Vị cựu thủ tướng Canada cũng có một số lời khuyên cho các lãnh tụ chính trị ngày nay, tin rằng họ cần nhớ là họ nên cố gắng bớt chạy theo các kết quả thăm dò dư luận, mà nên được định hướng bằng các mục tiêu và thành tựu.

“Lịch sử sẽ nhớ không chỉ vị trí của bạn vào một ngày cụ thể trong một cuộc thăm dò dư luận Gallup, mà cả lập trường của bạn về những vấn đề quan trọng của ngày hôm đó, và liệu bạn có tạo ra được những thay đổi định hình tương lai của đất nước bạn,” ông Mulroney nhận xét. “Nếu bạn làm như vậy, bạn đang xử lý những thay đổi cơ cấu mà toàn bộ những thay đổi đó có xu hướng không được lòng cử tri trong ngắn hạn. Nhưng được lòng cử tri không có nghĩa điều đó đúng. Các lãnh đạo chính trị phải biết cách không chạy theo những tít báo êm tai trong 10 ngày tới, mà nên phấn đấu vì một nước Canada tốt đẹp hơn trong 10 năm tới. Để làm được điều đó, bạn cần phải có lòng can đảm và chịu đựng được sự chỉ trích xuất phát từ những giới phê phán không biết mệt mỏi của phía bên kia, và bạn phải chịu đựng điều này trong khi bạn chờ đợi lời phán quyết mà về lâu về dài chỉ có lịch sử và một quốc gia bình thản hơn mới có thể đưa ra.”

Nguồn: Angus Gillespie, A Retrospect of Canada’s Landmark Free Trade Agreement 20 Years Later, The Canadian Business Journal, 1/2014.

Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Vũ Lửa Hạ

(Bản lược dịch, ký tên Khương An, đăng trên Thời Mới Canada, ngày 1/1/2014.)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *