Robert Haddick, Tạp chí Foreign Policy, 3/8/2012
Lầu Năm Góc gần đây đặt hàng cho Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ra khuyến nghị những kế hoạch bố trí quân sự ở Thái Bình Dương. Bản báo cáo ngày 26 tháng 7 của CSIS khuyến nghị Lầu Năm Góc nên rút bớt lực lượng ra khỏi Đông Bắc Á và tái phân bổ về hướng Biển Đông. Cụ thể là CSIS kêu gọi Lầu Năm Góc đặt nhiều tàu ngầm tấn công ở Guam, tăng cường sự hiện diện của Lực lượng Thủy quân Lục chiến trong khu vực này, và nghiên cứu khả năng đặt một đội tiêm kích hàng không mẫu hạm ở Tây Úc.
Biển Đông rõ ràng đang nóng dần lên thành nơi có thể bùng nổ xung đột. Những tranh chấp về lãnh thổ, quyền đánh bắt hải sản, và cho thuê khai thác dầu đã tăng nhanh trong năm nay. Hội nghị ASEAN gần đây ở Phnom Penh, Campuchia, nhằm đạt được tiến bộ về quy tắc hành xử cho Biển Đông, đã đổ vỡ trong cay đắng và, lần đầu tiên trong 45 năm, không thỏa thuận được tuyên bố chung lúc bế mạc. Việt Nam và Philippines vô cùng phật lòng vì những nước láng giềng Đông Nam Á của họ không đạt được tiến bộ nào về một lập trường thống nhất phản đối những hành động xâm lấn của Trung Quốc trong vùng biển này.
Sự gia tăng sức mạnh quân sự Mỹ trong khu vực này, qua lời kêu gọi của cả bản báo cáo CSIS lẫn Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta trong một bài diễn văn hồi tháng Sáu ở Singapore, một phần là để ngăn ngừa hành động xâm lược lộ liễu, chẳng hạn việc đột ngột tái diễn Chiến tranh Triều Tiên, hay việc Trung Quốc tiến hành một cuộc tấn công toàn diện và chớp nhoáng (blitzkrieg) đánh Đài Loan. Trong bối cảnh những kịch bản đó nay được xem là xa vời, sự hiện diện quân sự của Mỹ trong khu vực này xem như có tác dụng. Nhưng nếu có một đối phương chơi trò “ăn mảnh tích tiểu thành đại” (salami-slicing)* thì sao? Tức là dùng chiến lược từ từ tích lũy những hành động nhỏ, mỗi hành động không đủ trở thành biến cố gây chiến tranh (casus belli), nhưng dần dà theo thời gian sẽ tích tụ thành một thay đổi chiến lược lớn. Giới soạn thảo chính sách và giới hoạch định quân sự Mỹ nên cân nhắc khả năng Trung Quốc đang theo đuổi một chiến lược tích-tiểu-thành-đại ở Biển Đông, mà nếu có thật thì sẽ làm đảo lộn những kế hoạch quân sự của Washington.
Phụ lục 4 trong báo cáo thường niên của Lầu Năm Góc năm nay về sức mạnh quân sự của Trung Quốc minh họa tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông, qua cái gọi là “đường chín đoạn”, cùng với những tuyên bố chủ quyền nhỏ hơn của các nước xung quanh vùng biển này. Một bản tin mới đây của BBC cho thấy tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc so với những vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý mà Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) đã dành cho những nước xung quanh vùng biển này. Mục tiêu của trò ăn mảnh tích tiểu thành đại của Bắc Kinh là, thông qua những hành động nhỏ nhưng bền bỉ, dần dần tích lũy chứng cứ cho sự hiện diện lâu dài của Trung Quốc ở lãnh thổ họ đã tuyên bố chủ quyền, với chủ định lấy tuyên bố chủ quyền đó xóa nhòa những quyền lợi kinh tế theo quy định của UNCLOS và có lẽ thậm chí cả quyền của tàu bè và máy bay được qua lại vùng hiện nay được xem là những tài nguyên chung toàn cầu (global commons). Với những “sự kiện thực tiễn” (facts on the ground) được tạo ra từ từ nhưng theo kiểu lũy tích, Trung Quốc hy vọng giải quyết trên cơ sở thực tế (de facto) và trên cơ sở pháp lý (de jure) những tuyên bố chủ quyền của mình.
Hồi tháng tư đã xảy ra một cuộc đối đầu hải quân giữa Trung Quốc và Philippines khi những tàu đánh cá của Trung Quốc bị phát hiện bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines gần Bãi cạn Scarborough. Cuộc đối đầu này đã kết thúc sau nhiều tuần mà không giải quyết được các vấn đề pháp lý nền tảng. Trong một diễn biến khác, Philippines hiện nay có dự định bắt đầu khoan tìm khí đốt tự nhiên ở Bãi Cỏ Rong (Reed Bank) gần Đảo Palawan của mình, và chương trình này bị Trung Quốc phản đối. Gần đây một tàu khu trục hải quân Trung Quốc mắc cạn cách Palawan 90 dặm; năm ngoái, các tàu chiến Trung Quốc đe dọa đâm vào một tàu khảo sát của Philippines gần Bãi Cỏ Rong.
Ở vùng biển đối diện, và trước thềm hội nghị thượng đỉnh xấu xố ở Phnom Penh, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC), một công ty quốc doanh, công bố danh sách những lô ngoài khơi chào mời các công ty thăm dò dầu khí nước ngoài đấu thầu. Trong trường hợp này, những lô này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam – trên thực tế, một số lô trong đó đã được Việt Nam cho thuê để thăm dò và phát triển. Hiếm có nhà phân tích nào nghĩ rằng một công ty nước ngoài như Exxon Mobil tiếp tay hợp thức hóa việc Trung Quốc ăn chặn những quyền lợi kinh tế của Việt Nam. Nhưng trò cho thuê các lô dầu khí của CNOOC chỉ là một cách khẳng định những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông, ngược với những ranh giới vùng đặc quyền kinh tế theo UNCLOS mà phần lớn các nhà quan sát nghĩ là đã được giải quyết.
Cuối cùng, hồi tháng 6, chính phủ Trung Quốc thành lập “thành phố Tam Sa” trên đảo Phú Lâm (Woody Island) trong Quần đảo Hoàng Sa, bị Trung Quốc đánh chiếm từ Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1974. Tam Sa sẽ là trung tâm hành chính cho những khu được Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, bao gồm Quần đảo Trường Sa gần Bãi Cỏ Rong và Palawan, và Bãi cạn Scarborough Shoal. Trung Quốc cũng đã tuyên bố những kế hoạch đưa đơn vị đồn trú quân sự tới vùng này.
Những hành động của Trung Quốc trông giống như nỗ lực thiết lập một cách dần dần và có hệ thống tính chính danh cho những tuyên bố chủ quyền của họ trong khu vực này. Họ đã dựng nên một chính quyền dân sự địa phương, và chính quyền dân sự này sẽ chỉ huy một đơn vị đồn trú quân sự thường trực. Họ đang khẳng định những quyền lợi kinh tế của mình bằng cách cho thuê các lô dầu khí và vùng đánh bắt hải sản bên trong các vùng đặc quyền kinh tế của những nước khác, và họ đang cử hải quân cản trở bước phát triển đã được các nước khác trong khu vực phê chuẩn. Ở cuối con đường này có hai chiến lợi phẩm: lượng dầu dưới Biển Đông có thể cung cấp cho Trung Quốc trong 60 năm, và khả năng vô hiệu hóa hệ thống liên minh quân sự Mỹ trong khu vực này.
Thất bại của ASEAN trong việc thiết lập một quy tắc ứng xử để giải quyết các tranh chấp trong vùng biển này lại có lợi cho chiến lược tích-tiểu-thành-đại của Trung Quốc. Nếu được thiết lập, một quy tắc ứng xử đa phương đã tạo được khuôn khổ pháp lý cho giải quyết tranh chấp và đặt tất cả các nước có tuyên bố chủ quyền trên cơ sở bình đẳng. Do không có quy tắc đó, hiện nay Trung Quốc có thể dùng lợi thế sức mạnh của mình để thống lĩnh những tranh chấp song phương với những nước láng giềng nhỏ của mình và có thể làm vậy mà không chịu các hậu quả chính trị do hành động vượt ra ngoài những luật lệ đã thỏa thuận.
Trong khi đó, Lầu Năm Góc dự định gởi quân tiếp viện đến khu vực này và đang hình thành những học thuyết chiến thuật mới để đương đầu với sức mạnh quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc. Nhưng giới hoạch định chính sách ở Washington sẽ bị kẹt vào thế bế tắc khi cố gắng áp dụng sức mạnh quân sự này đối với một kẻ biết sử dụng thành thục chiến lược tích-tiểu-thành-đại. Nếu kẻ đó biết chia nhỏ hành động đến mức vụn vặt, không một hành động nào nghiêm trọng đến mức đủ lý do để khơi mào chiến tranh. Làm sao một nhà hoạch định chính sách ở Washington có thể đủ lý do can thiệp vào chuyện một giàn khoan dầu của CNOOC thả neo bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, hay tàu khu trục Trung Quốc rượt đuổi tàu khảo sát của Philippines trên vùng Bãi Cỏ Rong, hay một trung đội bộ binh Trung Quốc xuất hiện trên đảo đá gần Quần đảo Trường Sa? Khi [một cường quốc] suy tính một cuộc chiến tranh vô cùng tốn kém với một cường quốc [khác], những biến cố nhỏ như vậy nếu được xem như nguyên nhân gây chiến thì quá vô lý. Nhưng nếu được tích lũy dần dà theo thời gian và trên không gian [đủ lớn], những hành động cỏn con đó có thể cộng dồn thành một thay đổi căn bản trong khu vực.
Dù Mỹ dường như là một diễn viên không có vai trò gì lớn lao trong màn kịch này, phần được mất của Mỹ cũng khá cao. Cả nền kinh tế toàn cầu lẫn kinh tế Mỹ phụ thuộc vào sự tự do đi lại qua vùng biển này; hoạt động thương mại toàn cầu trị giá 5,3 ngàn tỉ đô-la đi qua Biển Đông mỗi năm, và 1,2 ngàn tỉ đô-la đi qua các cảng của Mỹ. Thứ hai, Mỹ quan tâm nhiều đến việc ngăn chặn bất cứ cường quốc nào đơn phương viết lại theo ý mình luật biển quốc tế lâu đời. Cuối cùng, tính khả tín của hệ thống liên minh của Mỹ và tính đáng tin cậy trong vai trò đối tác an ninh sẽ bị đe dọa.
Một kẻ áp dụng chiến lược tích-tiểu-thành-đại đặt gánh nặng hành động gây xáo trộn lên vai đối phương của mình. Đối phương đó sẽ ở vào vị thế khó xử khi phải ra tay can thiệp dường như vô căn cứ và thực hiện chủ trương hung hăng gây hấn không thể biện hộ được. Đối với, Trung Quốc, họ chỉ việc không thèm đếm xỉa đến hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ và tiếp tục với chiến lược tích-tiểu-thành-đại của mình, với giả định hợp lý là Mỹ sẽ không thể nào nghĩ tới chuyện đe đọa gây ra chiến tranh giữa các cường quốc chỉ vì một biến cố cỏn con ở một vùng biển xa xăm.
Nhưng chuyện cỏn con dưới góc nhìn của Mỹ là thể là chuyện trọng đại đối với những nước như Philippines và Việt Nam đang cố gắng bảo vệ lãnh thổ và các quyền lợi kinh tế của mình tránh khỏi sự giành giật quyền lực trắng trợn. Thực tế này có thể khiến các nước này có động cơ mạnh hơn để tỏ ra xông xáo hơn trong việc phòng thủ trước những hành động xâm lấn của Trung Quốc. Và nếu chiến sự bùng nổ giữa Trung Quốc và một trong những nước nhỏ này, giới làm chính sách ở Bắc Kinh sẽ phải cân nhắc những hậu quả về uy tín và về chiến lược khi tấn công một nước láng giềng yếu hơn.
Cả Mỹ lẫn các nước thành viên ASEAN sẽ rất muốn có một quy tắc ứng xử được thỏa thuận để giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông. Nhưng nếu thay vì thế Trung Quốc lại chọn chiến lược tích-tiểu-thành-đại, giới hoạch định chính sách ở Washington có thể kết luận rằng phản ứng duy nhất bền vững về mặt chính trị là khuyến khích các nước nhỏ này hãy bảo vệ các quyền lợi của mình một cách mạnh mẽ hơn, cho dù điều đó có thể gây ra xung đột, với hứa hẹn Mỹ sẽ hậu thuẫn quân sự. Như vậy nghĩa là đảo ngược chính sách hiện nay của Mỹ, vốn từ trước đến nay tuyên bố trung lập đối với những tranh chấp biên giới trên vùng biển này.
Mỹ đến nay đã tỏ ra trung lập vì không muốn tự dấn thân trước vào một chuỗi biến cố mà họ có thể không kiểm soát được. Cách tiếp cận này là điều dễ hiểu nhưng sẽ ngày càng mâu thuẫn với những lời hứa an ninh mà Mỹ đã đưa ra với các nước bạn trong khu vực này và với mục tiêu bảo tồn những tài nguyên chung toàn cầu. Giới hoạch định chính sách và chiến lược ở Washington sẽ phải cân nhắc xem Mỹ có thể làm gì, nếu có, để đối phó với một kẻ áp dụng chiến lược tích-tiểu-thành-đại ma mãnh như vậy.
Robert Haddick là thư ký tòa soạn của Small Wars Journal.
* Salami-slicing nghĩa đen là cắt xúc xích thành lát nhỏ, dùng để chỉ việc chia nhỏ (thường là lén lút) hành động để không bị chú ý. Nghĩa của từ này trong quân sự / ngoại giao / chính trị được giải thích trong đoạn văn này. Trong kinh tế / tài chính, từ này dùng chỉ để những hành động ăn xén gian lận, ví dụ như gắn chip vào cây xăng ăn gian một vài mililít khi khách đổ xăng, hay nhân viên ngân hàng lén lút làm tròn đơn vị xu lẻ trong giao dịch rồi chuyển sang một tài khoản khác để biển thủ. Trong tin học, từ này chỉ hành động âm thầm tấn công nhiều máy tính riêng lẻ để đến một lúc nào đó đánh sập cả hệ thống đã nhiễm bẩn. Giải thích dông dài như vậy để thấy hết ý nghĩa của từ này trong tiếng Anh, và hiểu rõ ý đồ thâm độc của Trung Quốc. (N.D.)
Bản tiếng Anh: Salami Slicing in the South China Sea, Foreign Policy, 3/8/2012.
Bản tiếng Việt: © 2012 Phạm Vũ Lửa Hạ, Blog lên đông xuống đoài.
Bài liên quan: Biển Đông là tương lai của xung đột