Thuyền nhân Việt Nam: sống để kể lại (Kỳ cuối)

Chris McGreal

Phạm Vũ Lửa Hạ dịch

(Kỳ 1)

Những người được tàu Wellpark cứu hầu như chẳng hay biết những điều này khi họ chuẩn bị cho một tương lai tại xứ lạ. Ba của Quan nộp đơn xin di cư sang Mỹ, nhưng thị trưởng lúc đó của Peterborough đã tới doanh trại ngỏ ý đón nhận 10 gia đình về ở tại một khu nhà xã hội mới. Ba tháng sau, Quan dời lên miền bắc. Rồi tới chuyện học hành, học tiếng Anh, và làm quen thích ứng văn hóa.

“Tôi nhớ vừa đi vừa nói chuyện bằng tiếng Quảng Đông với một nữ sinh trên hành lang. Cô hiệu phó – tôi rất sợ cô – chặn hai đứa tôi lại và nói: “Không, không được, các em nên nói tiếng Anh ở trường.” Ba tôi tìm được việc làm tại một hãng dệt do một gia đình người Hy Lạp làm chủ. Ông chịu trách nhiệm mở cửa xưởng mỗi buổi sáng. Có lúc ông nói tiếng Anh với giọng Hy Lạp.” Quan nói với giọng London không lẫn vào đâu được.

Hai anh nhà họ Nguyen vẫn giữ chút âm sắc tiếng Việt của mình khi nói tiếng Anh cũng như còn cái tính tìm sự hài hước ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Hung Nguyen được đưa đi học ở một trường gần doanh trại Kensington, nơi ông nhớ có một giáo viên tên là Elizabeth. “Cô dạy bọn tôi dùng nĩa. Bọn tôi chưa bao giờ thấy nĩa. Trông có vẻ nguy hiểm. Ai lại đút nó vô miệng? Vì vậy bọn tôi dùng muỗng. Sau đó họ giấu hết muỗng.” Ông kể học hành “rất cực” và nói: “Bọn tôi phải học tiếng Anh và cũng học toán vì đó là môn duy nhất bọn tôi có thể học mà không cần tiếng Anh lưu loát.”

Lúc đó là thập niên 1970, khi Mặt trận Dân tộc và nạn phân biệt chủng tộc không chính thức đang bao trùm nước Anh. Quan kể: “Trên đường đi học chúng tôi bị chế giễu đủ kiểu thường thấy – bị nhiếc móc kỳ thị. Lúc nào tôi cũng nghe má tôi kể đủ chuyện. Người lớn cảm thấy bị kỳ thị rõ hơn. Họ rất đau lòng vì chuyện đó.”

Những người khác trong nhóm người tị nạn được tàu Wellpark cứu kể rằng họ thường xuyên đánh lộn với những kẻ kỳ thị ở trường hay trên đường phố tại các khu nhà xã hội nơi họ sinh sống. Một số người lớn gặp khó khăn với ngôn ngữ mới và chỉ tìm được việc thất thường thấp kém hơn nhiều so với những vị trí chuyên môn mà họ từng làm. Nhưng, dần dà theo thời gian, con cái của họ đều thành đạt.

Trong vòng vài tuần sau khi tới doanh trại Kensington, Hung Nguyen tìm được việc làm cho một dự án phân phối sách cũ tới các nước đang phát triển. Dự án này do Nữ Bá tước Ranfurly điều hành; về sau bà nổi tiếng với bộ nhật ký chiến tranh tuyệt vời To War With Whitaker. Bà ngỏ ý giúp Hung học y trở lại. “Bà là một quý bà lớn tuổi hơn. Quý phái. Vậy mà tôi kiêu ngạo. Tôi từ chối vì muốn tự lực.”

Hội đồng Tị nạn Anh Quốc cấp học bổng cho Hung học tiếng Anh ở Saffron Walden. Trong những kỳ nghỉ, anh cùng với má qua Mỹ thăm bà con. Họ khuyến khích anh nộp đơn xin học trường y ở Mỹ và anh đã được nhận. Hung kể: “Vậy là tôi ở lại. Tôi trở thành sinh viên từ Anh sang du học.” Hung vừa kể vừa cười về ý nghĩ đó. Sau khi có bằng y khoa, ông học bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh (MBA) và dần dần thành đạt nhờ sự trùng lắp đáng kể giữa ngành y và kinh doanh tại Mỹ.

Hiện nay, Hung Nguyen làm chủ một trung tâm y khoa tại Little Saigon ở mạn đông nam Los Angeles, nơi tập trung người Việt đông nhất bên ngoài quê hương của họ. Khu này có phòng mạch của ông, một phòng nha khoa và một tiệm thuốc tây. Công ty của ông được đặt tên là Wellpark Inc, và ở bên ngoài, ông đang xây dựng một đài tưởng niệm chiếc tàu đã cứu ông. Hung cũng là người dẫn chương trình giải đáp y khoa hàng tuần trên đài phát thanh tiếng Việt địa phương.

“Đôi khi tôi nói về tàu Wellpark. Tôi nói: “Có những người đã giúp chúng ta nhưng một số trong số họ đã quên. Họ thậm chí không nhớ đã giúp. Họ không nhận thấy họ đã có tác động lớn chừng nào. Nhưng chúng ta vẫn nhớ và có thể không bao giờ đền đáp công ơn của họ được, nhưng chúng ta có thể làm ơn cho người khác. Chúng ta có thể giúp đỡ người khác để vinh danh họ.’”

Bác sĩ Hung Nguyen (trên, giữa), một trong những thuyền nhân được tàu MV Wellpark cứu, cùng với gia đình bên ngoài trung tâm y khoa của ông ở Quận Cam, California. (Ảnh: Barry J Holmes / The Observer)
Bác sĩ Hung Nguyen (trên, giữa), một trong những thuyền nhân được tàu MV Wellpark cứu, cùng với gia đình bên ngoài trung tâm y khoa của ông ở Quận Cam, California. (Ảnh: Barry J Holmes / The Observer)

Một thập niên sau khi ông dời qua California ba má ông qua theo và mở một tiệm giặt. Khoảng một chục gia đình trên tàu Wellpark đã định cư ở Mỹ. Đa số ở lại Anh, trong đó có Huy. Anh đậu bằng kỹ sư công chánh sau khi gọi điện tới Đại học Manchester và xin được nối dây tới khoa kỹ thuật.

“Họ hỏi: ‘Kỹ thuật gì?’ Tôi đáp: ‘Tôi không biết, nối cho tôi với khoa kỹ thuật nào cũng được.’ Vậy là họ nối dây cho tôi tới khoa kỹ thuật công chánh. Họ hỏi: ‘Anh có chắc anh biết kỹ thuật công chánh là gì không?’ Tôi không biết, nhưng không muốn thú nhận. Nên tôi đáp: ‘Biết chứ.’ Vậy là tôi theo học kỹ thuật công chánh. Tôi mê ngành này.” Huy hiện nay là chuyên viên tư vấn cho Sở Giao thông London, mô hình quản lý luồng giao thông của thành phố – trên mặt đất, đường ngầm và trên sông.

Diep Quan tại ngân hàng Morgan Stanley ở Canary Wharf, London. (Ảnh: Suki Dhanda / Observer)
Diep Quan tại ngân hàng Morgan Stanley ở Canary Wharf, London. (Ảnh: Suki Dhanda / Observer)

Diep Quan học lấy bằng kinh doanh và kế toán. “Tôi thuộc thế hệ thanh niên Thatcher. Làm ăn kinh doanh. Phải kiếm tiền. Lúc đó vẫn chưa biết tôi muốn làm gì. Tôi chỉ biết rằng đó là bước đệm để tới chỗ có tiền.” Hiện nay, cô là chuyên viên huấn luyện công nghệ thông tin làm việc hợp đồng cho ngân hàng Morgan Stanley.

Trong nhiều năm, Hung Nguyen băn khoăn không biết thủy thủ đoàn của tàu Wellpark những người tị nạn đi cùng chuyến với ông nay đã ra sao. Ông đã giúp tổ chức lễ họp mặt kỷ niệm 30 năm vào năm 2008 tại Little Saigon. Thuyền trưởng Connell tới dự. Holmes cũng tới, và mang trả chiếc nhẫn cho Luisa Van Nu.

Hung dẫn 4 đứa con, từ 10 tới 16 tuổi, tới dự. “Tôi nói với các con: ‘Nếu không có những người này, các con đã không có mặt ở đây. Không ai trong chúng ta không có mặt ở đây.’

“Chúng tôi đã may mắn. Lẽ ra giờ đây chúng tôi đã chết rồi. Có 346 người trên chiếc tàu đó. Nay chúng tôi đã nhân con số đó lên thành hàng ngàn. Chúng tôi có con, và con cái chúng tôi có con. Nhìn những tấm ảnh từ chiếc tàu đó, đôi khi tôi khóc, khóc một mình để người khác không thấy.”

Sau thành công của lễ họp mặt ở California, Quan tổ chức cuộc họp mặt tiếp theo ở London năm năm sau đó. Cô kể: “Lớn lên ở Peterborough, tôi thường băn khoăn thủy thủ đoàn nay ở đâu. Cuối cùng được gặp mặt tất cả những người này là một sự kiện rất cảm động. Đối với chúng tôi, họ là những người anh hùng. Chúng tôi muốn cho họ thấy con cái của chúng tôi. Chúng tôi muốn nói: “Mấy đứa nhỏ này đã không có mặt ở đây nếu lúc đó các ông không cứu chúng tôi.’ Việc họ làm là một điều vĩ đại. Họ cũng có thể đã ngoảnh mặt làm ngơ như những chiếc tàu khác. Nhưng họ đã không làm vậy. Và họ đã chấp nhận rủi ro rất nhiều khi cứu chúng tôi.”

Holmes nói ông cảm thấy ngượng ngùng về sự bày tỏ tình cảm dạt dào của những người sống sót. Ông nói: “Hector Connell thấy ngượng ngùng về Huân chương MBE. Ông không tự xem mình là anh hùng. Chẳng có ai trong chúng tôi xem mình là anh hùng. Lễ họp mặt tổ chức ở một nhà hàng tại Little Saigon. Họ tặng tôi một cái ly in hình bản đồ Biển Đông: ‘Để cảm tạ hành động anh hùng và nhân đạo của quý vị đã cho 346 người có cơ hội thứ hai trong đời.’ Tôi nói với họ rằng bất cứ ai cũng sẽ làm như vậy. Chúng tôi chỉ tình cờ có mặt ở đó vào lúc đó. Nhưng họ không chịu nghe.”

Lễ họp mặt cũng là một cơ hội để những người tị nạn trên tàu Wellpark so sánh những con đường khác nhau mà cuộc đời của họ đã đi qua kể từ khi được cứu nạn. Mọi người đồng ý rằng Mỹ là nơi nên tới sinh sống nếu ta muốn kiếm tiền, nhưng người Mỹ làm việc quá nhiều. Hung Nguyen, người đã trở thành triệu phú và lái xe Mercedes-Benz, nói thỉnh thoảng ông ghen tị với lối sống của em trai Huy ở London. “Cuộc sống bên đó tốt hơn nhiều. Ở bên Mỹ này chúng tôi làm việc quá nhiều. Em tôi được nghỉ phép dài ngày, cùng vợ đi chơi ở Philippines. Tôi nghe mà thèm quá.”

Huy chẳng hối tiếc gì về việc ở lại London. “Người Anh đã cho tôi tất cả mọi thứ – bây giờ tới lúc tôi đền đáp.” Ông nói vậy, sau một ngày làm bổn phận bồi thẩm tại tòa án Croydon Crown Court. “Khi đóng thuế tôi không than phiền.”

Trong số những người được tàu Wellpark cứu, hiếm có ai hình dung có ngày sẽ quay lại Việt Nam, nhưng trong những năm gần đây Việt Nam đã mở cửa và nhiều người trong số hàng ngàn người đã bỏ đi về thăm quê hương. Họ kể lại những cảm giác sửng sốt giống nhau mức độ thay đổi và việc khó tìm được nhà cũ của họ.

Hung Nguyen đã về Việt Nam hai lần. “Họ không còn là cộng sản nữa. Họ là tư bản! Chúng tôi gọi họ là tư bản đỏ. Rất nhiều người giàu. Giàu nứt đố đổ vách. Rất nhiều người nghèo.

“Tôi tới thăm bạn thời trung học. Họ đều trông có vẻ già hơn tôi rất nhiều. Chúng tôi cùng tuổi, nhưng cuộc sống ở đó nhọc nhằn hơn cho họ.”

Paul Tran mới bốn tuổi khi được tàu Wellpark cứu và không nhớ gì về Việt Nam. Nhưng anh đã về nhiều lần và cảm thấy gắn bó gần gũi với nơi anh đã sinh ra. “Ba má tôi đã rời bỏ đất nước đó vì cái chế độ đó. Nhưng tôi tự quyết định trở về để hiểu rõ hơn về cội nguồn của tôi và gặp gỡ những người cùng độ tuổi với tôi để nghe những câu chuyện và lịch sử của họ. Tôi tiếp tục về nhiều lần vì tôi thích văn hóa của chúng tôi. Tôi thích đất nước của chúng tôi. Tôi đã từng có những ý nghĩ rằng nếu gia đình chúng tôi đã ở lại thì liệu có tốt hơn hay không. Nhưng tôi hài lòng với chính bản thân mình ở đây. Nếu còn ở bên đó biết đâu tôi có thể đã thành một kẻ cà chớn. Tôi có thể đã thành một đứa hư, một tên du đãng. Nay tôi là người Anh đích thực, nhưng với văn hóa Việt Nam.”

Năm 2012, Quan đã tổ chức cho họ hàng về thăm nơi sinh của cô. Mười tám người, trong đó có chồng con cô chưa bao giờ tới Việt Nam, đã đáp xe minibus đi quanh thành phố cô biết tới với tên gọi Sài Gòn. Cô nói tới khi kết thúc chuyến đi cô biết mình thuộc về London nhiều hơn Việt Nam, cho dù đó là lịch sử của cô. Nhưng cô nghĩ rằng ba cô có cảm nghĩ khác.

Quan nói: “Tôi nghĩ ba tôi chẳng bao giờ muốn bỏ đi. Ông đã mất hết mọi thứ. Tôi nghĩ điều đó đã khiến ông rất đau lòng về nhiều mặt. Tôi nghĩ ông đã không bao giờ hồi phục được chuyện đó. Không chỉ về mặt tiền bạc. Tôi nghĩ chuyện đó đã làm suy sụp con người của ông.”

“Mấy chị em tôi nói: ‘Mình đang bằng tuổi của ba khi ba bỏ xứ ra đi. Nếu bây giờ mình phải khóa cửa nhà, lên tàu rồi ra cửa sông thì sao? Chẳng biết mình sẽ đi đâu, nhưng mình không thể ở lại đây.’ Điều gì sẽ khiến ta quá lo sợ? Điều gì khiến ta sợ tới nỗi ta sẽ làm vậy? Ta mất tất cả. Quả thật rất khó khăn cho một người khi phải hình dung như vậy.”

Đó là lý do tại sao dòng người tị nạn từ Syria sang Châu Âu hiện nay được các cựu thuyền nhân thông cảm. Huy nói: “Tôi đã khóc khi coi tin tức về chuyện nước Đức tiếp nhận biết bao người tị nạn đó. tôi khá ngạc nhiên vì họ mở cửa tiếp nhận nhiều người như vậy. Tôi thực sự cảm động trước hành động của người Đức. Tôi nghĩ người Anh lẽ ra đã có thể làm được nhiều hơn.

Quan bực mình trước điều mà cô gọi là thiếu lòng bác ái đối với người Syria, dù cô hiểu rằng điều đó một phần là do nỗi sợ khủng bố.

Tran nói anh thấy chính mình trong những hình ảnh người Syria tuần hành trên khắp Châu Âu. Anh nói: “Khi tôi coi những hình ảnh đó, tôi đặt bản thân mình vào chỗ của họ vì tôi đã từng ở vào vị thế kiểu đó. Tôi bắt đầu thắc mắc đủ điều. Họ bị buộc phải ra đi? Họ bị tống đi? Và rồi tôi nghĩ, có phải chúng tôi đã bị buộc phải ra đi? Không. Ra đi là lựa chọn của chúng tôi. Và tôi nghĩ, ‘Có lẽ đối với một số người ra đi là lựa chọn của họ, và có lẽ những người khác không có lựa chọn nào khác do chiến tranh. Tôi cảm thấy ra sao? Hầu như con người ai cũng làm như vậy. Họ là những người hết sức muốn ra đi. Giống như những gia đình chúng tôi thời đó.”

Nguồn: Chris McGreal, Vietnamese boat people: living to tell the tale, The Guardian, 20-3-2016.

(Bản dịch, ký tên Khương An, đã đăng trên Thời Mới-Canada ngày 20/4/2016)

Bản tiếng Việt © 2016 Phạm Vũ Lửa Hạ

Bài liên quan:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *