Warren Buffett – Ông vua đầu tư chứng khoán

warren_buffettSinh ngày 30/8/1930 tại Omaha, tiểu bang Nebraska (Mỹ), Warren Buffett bộc lộ những tài năng làm giàu ngay từ khi còn rất trẻ.  Mới sáu tuổi, Buffett đã biết mua một giỏ sáu lon Coca-Cola với giá 25 xu, rồi chia ra bán lẻ từng lon với giá 5 xu/lon.  Ngay cả khi mắc một bệnh khó hiểu, nằm trên giường cậu cũng nghĩ ra cách làm giàu.  Khỏi bệnh, cậu rủ rê bạn bè tham gia vào những trò kiếm tiền mà cậu vừa nghĩ ra.

Cậu đi tìm những quả bóng golf bị mất, đóng gói chúng lại rồi đem bán.  Cậu cũng trở thành một trong những chuyên viên mách nước đua ngựa trẻ nhất nước Mỹ khi cậu xuất bản tờ tin Stable Boy Selections cung cấp thông tin của mình về những chú ngựa có hy vọng thắng giải.  Không biết cậu đã chọn đúng được bao nhiêu ngựa thắng, nhưng nếu đạt kết quả như biệt tài chọn cổ phiếu sau này, có lẽ cậu đã giúp khối người đặt cược thắng đậm.

Khi Warren 12 tuổi, cha cậu là Howard Buffett đắc cử vào Quốc hội và gia đình chuyển lên Washington, DC.  Ban đầu, Warren không chịu đi cùng, và phản ứng bằng cách bỏ nhà đi.  Tuy nhiên, cậu đổi ý sau khi nhận ra tiềm năng thương mại ở thủ đô.  Tại đó, cậu nhận phát báo đến 5 vòng cùng một lúc, mỗi buổi sáng phát được đến 500 tờ báo, và kiếm được số tiền bằng với mức lương làm toàn thời gian là 175 đô-la.  Mới 14 tuổi, cậu đã kiếm được 1200 đô-la – đủ để mua 40 mẫu Anh đất trang trại ở Nebraska, và cho người khác mướn để canh tác.

Năm học lớp 12, sau khi thử sức kinh doanh với việc lắp đặt trò chơi điện tử nâng cấp trong các tiệm hớt tóc, Buffett quyết định hoàn thiện năng khiếu thương mại của mình bằng cách theo học kinh doanh một cách chính quy.  Anh được nhận vào học tại Trường Tài chính & Thương mại Wharton lừng danh của Đại học Pennsylvania.  Đó là một thời điểm then chốt đối với Buffett.  Nếu anh miệt mài theo đuổi khóa học đến cùng, có lẽ anh đã không thành lập công ty đầu tư nổi tiếng Berkshire Hathaway.

Buffett bỏ học nửa chừng vì thấy lý thuyết kinh doanh quá nhàm chán, và chẳng thấy trong chương trình học có gì thỏa mãn được lòng ham muốn kiến thức thực tế của anh.  Về sau, anh tốt nghiệp kinh doanh và kinh tế ở Đại học Nebraska, trong thời gian học cũng tranh thủ tổ chức phát hành báo cho tờ Lincoln Journal.  Năm 19 tuổi, anh nộp đơn xin vào Trường QTKD của Harvard nhưng không được tuyển.  Sau đó, anh được nhận vào Trường QTKDcủa Đại học Columbia, tại đó anh học tài chính với Ben Graham, chuyên gia đầu ngành về đầu tư.

Chính khi nghiên cứu về thị trường chứng khoán Buffett mới phát hiện đúng năng khiếu của mình.  Thử thách đầu tư cổ phiếu của Buffett là lúc mới 11 tuổi (được bố là nhà môi giới cổ phiếu giúp).  Buffett mua ba cổ phần của Cities Service với giá 38 đô-la / cổ phần.  Sau đó, cổ phiếu này nhanh chóng rớt giá xuống còn 27 đô-la.  Khi giá tăng lên lại đến mức 40 đô-la, cậu liền bán và thu được một khoản lợi nhỏ.  Sau đó cổ phiếu này tăng giá đến 200 đô-la, khiến cậu vò đầu bức tai tiếc rẻ, và dạy cậu bài học đầu tiên về giá trị của đầu tư dài hạn.

Quyết chí kiếm sống bằng nghề đầu tư, Buffett dồn hết sức lực và toàn bộ tiền tiết kiệm dành dụm được từ nhiều vụ làm ăn để đổ vào thị trường chứng khoán.  Từ 1951 đến 1956, Buffett biến 9.800 đô-la thành 140.000 đô-la.  Thị trường râm ran bàn tán về thiên tài đầu tư trẻ tuổi mới xuất hiện, và ngày càng có nhiều người nhờ anh đầu tư giùm cho họ.  Lúc đầu chỉ giúp bạn bè, sau giúp cả thiên hạ bá tánh, và chẳng mấy chốc Buffett thành lập những công ty hợp danh hữu hạn, và hưởng 25% trên bất cứ khoản lợi tức nào cao trên 4%.

Sau khi lấy đầu tư làm sự nghiệp, Buffett xây dựng chiến lược đầu tư của riêng mình.  Anh không đầu tư vào những doanh nghiệp nào mình không hiểu – trong đó có những công ty công nghệ cao.  Anh chịu ảnh hưởng lớn của Ben Graham, thầy cũ ở Đại học Columbia và là đồng tác giả của tác phẩm kinh điển về đầu tư “Phân tích Chứng khoán” (1934).  Buffett phát triển những chiến lược đầu tư của Graham thêm một bước nữa bằng chọn những cổ phiếu có tiềm năng nhưng có giá khá rẻ, rồi nắm giữ chúng trong thời gian dài..  Phương pháp này đòi hỏi phải đánh giá những tài sản vô hình của công ty như giá trị của thương hiệu.  Về mặt này, Buffett đã đi trước thời đại.  Tài sản vô hình hiện nay là đề tài ngày càng được giới chuyên môn quan tâm, nhưng vào thập niên 1950, chẳng mấy ai để ý tới.

Từ 1957 đến 1966, công ty hợp danh đầu tư của Buffett đạt mức lợi nhuận đáng nể là 1.156%, trong khi Chỉ số Bình quân Công nghiệp Dow Jones chỉ tăng 122,9% trong cùng thời gian đó.  Một khoản đầu tư 10.000 đô-la của một người hợp danh sẽ sinh lợi thành 80.420 đô-la, sau khi trừ phần chia cho Buffett.  Buffett tiếp tục đạt hiệu quả cao hơn thị trường, có mức sinh lời 36% vào năm 1967 và 59% vào năm 1968 trong một thị trường đầu cơ (vốn không hợp với chiến lược đầu tư của Buffett).  Năm 1969, trước sự ngạc nhiên của ban giám đốc, Buffett chấm dứt hãng đầu tư hợp danh vì lo ngại không thể tiếp tục đạt kết quả cao trong một môi trường đầu tư không thích hợp.

Từ năm 1969, Buffett tập trung hoàn toàn vào hãng đầu tư Berkshire Hathaway, công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán mà ông mua lại vào năm 1965.  Thị trường lúc xuống lúc lên, nhưng Buffett luôn đạt kết quả ổn định cho cổ đông của mình.  Biệt tài phi thường của ông trong việc chọn cổ phiếu để đầu tư đã khiến ông được mệnh danh là “Nhà hiền triết xứ Omaha”.  Nếu xét về kết quả đáng nể của công ty ông, rõ ràng ông rất xứng đáng với danh hiệu đó.  Một khoản đầu tư 10.000 đô-la vào Berkshire Hathaway vào năm 1965 sẽ đáng giá hơn 50 triệu đô-la vào cuối năm 2000.  Những ai đầu tư vào Chỉ số S&P 500 cũng chỉ tích lũy được khoảng 500.000 đô-la.  Trong thời gian đó, Buffett đã chọn những cổ phiếu như Coca-Cola và American Express khi chúng còn trong giai đoạn khốn khó.  Trái lại, ông đã không bị cuốn vào những đợt bong bóng giá cổ phiếu do báo chí khuếch trương chẳng hạn như đợt bùng nổ cổ phiếu Internet cuối thập niên 1990.

Bản thân Buffett không bị tác động bởi biết bao lời ca ngợi dành cho ông.  Là một người khiêm tốn, ông chẳng sắm sửa những thứ xa xỉ, ngoại trừ một chiếc máy bay cho công ty (mà cũng chỉ là một chiếc nhỏ đã xài rồi).  Theo xếp hạng của tạp chí Forbes trong năm 2003, với tài sản 30,5 tỉ đô-la, ông là người giàu thứ nhì thế giới (sau Bill Gates).  Nhưng ông sống trong một căn nhà bình thường ở Omaha, vẫn lái một chiếc xe cũ, và chỉ có một văn phòng khá nhỏ với một vài nhân viên.  Thú vui duy nhất của ông dường như là đọc các bản báo cáo công ty với một lòng say mê lạ thường dù ông đã đọc hàng ngàn bản như thế.

Trích từ tập sách Một góc nhìn kinh doanh(trang 211-215), NXB Trẻ 2005. Bài gốc đăng trên Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn, 14/8/2003.

URL: http://phamvuluaha.wordpress.com/2012/12/28/warren-buffett/

Bài liên quan: Đầu tư như Buffet đâu dễ

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *